SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4

Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra

Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày xưa nên học sinh không tiếp thu được. Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, nhanh quên, các em chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử. Năm học 2013 – 2014 là năm học tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4D, chất lượng đầu vào của HS thấp và đa số các em là người dân tộc, bố mẹ thường đi làm ăn xa không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái, nhiều em gia đình rất khó khăn. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở để tìm biện pháp giúp HS yêu thích học Lịch sử hơn, chất lượng môn học này khả quan hơn.

Năm học này cũng là năm thứ hai trường tiểu học Lý Tự Trọng thực hiện mô hình dạy học kiểu mới gọi tắt là VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên (thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép) sang dạy học hợp tác theo nhóm (học sinh chủ động học tập, tự khám phá chiếm lĩnh kiến thức, GV là người hướng dẫn, gợi mở để HS nắm được kiến thức). Việc học theo nhóm này hình thành cho các em các kĩ năng như kĩ năng hợp tác trong nhóm, trong lớp; kĩ năng giao tiếp, tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 2213Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày xưa nên học sinh không tiếp thu được. Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, nhanh quên, các em chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử. Năm học 2013 – 2014 là năm học tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4D, chất lượng đầu vào của HS thấp và đa số các em là người dân tộc, bố mẹ thường đi làm ăn xa không quan tâm nhiều đến việc học hành của con cái, nhiều em gia đình rất khó khăn. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở để tìm biện pháp giúp HS yêu thích học Lịch sử hơn, chất lượng môn học này khả quan hơn.
Năm học này cũng là năm thứ hai trường tiểu học Lý Tự Trọng thực hiện mô hình dạy học kiểu mới gọi tắt là VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên (thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép) sang dạy học hợp tác theo nhóm (học sinh chủ động học tập, tự khám phá chiếm lĩnh kiến thức, GV là người hướng dẫn, gợi mở để HS nắm được kiến thức). Việc học theo nhóm này hình thành cho các em các kĩ năng như kĩ năng hợp tác trong nhóm, trong lớp; kĩ năng giao tiếp, tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.
Sách Hướng dẫn học môn Lịch sử Địa lí vừa là sách dùng cho học sinh vừa là sách dùng cho giáo viên, đồng thời cũng là sách bài tập. Sự kết hợp ba trong một này vừa tiện lợi nhưng cũng gây khó khăn cho giáo viên vì không có sách thiết kế bài giảng hay sách giáo viên để làm cơ sở cho việc dạy học.
Học sinh chỉ được sử dụng sách Hướng dẫn học trên lớp mà không được mang về nhà nên khó khăn trong việc ôn lại bài cũ và chuẩn bị nội dung cho bài mới. Phụ huynh cũng gặp khó khăn trong việc hướng dẫn con em học tập ở nhà. Muốn có sách để học ở nhà phụ huynh phải phô tô sách cho con em mình học vừa tốn kém mà chất lượng của sách phô tô thì không cao.
Học sinh phải đọc hiểu tốt mới tự học theo các câu lệnh trong sách nhưng trong thực tế một số em đọc hiểu còn chậm vì vậy ảnh hưởng đến tiến độ bài học. Mặt khác các kĩ năng như giao tiếp, hợp tác, lãnh đạo, giải quyết vấn đề của một số em còn rất hạn chế nhất là các em người dân tộc thiểu số các em rất rụt rè trong giao tiếp. Vả lại môn học Lịch sử chỉ được học 1 tiết/tuần mà đối với học sinh tiểu học các em nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên cho nên nhiều nội dung các em không nhớ hết được dẫn đến việc hổng kiến thức.h phải i giáo viên lo ngại việc dạy học theo n
II.3. Giải pháp, biện pháp
a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
 Để nâng cao hiệu quả dạy và học môn Lịch sử lớp 4, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm thay đổi cách dạy, cách học Lịch sử, hình thành cho HS một số kĩ năng khi học Lịch sử. Đồng thời giúp giáo viên giảng dạy môn học này một cách hiệu quả hơn.
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Thay đổi nhận thức của người dạy, người học
* Đối với giáo viên
Tôi luôn xác định rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích Lịch sử, phải tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về lịch sử. Việc bồi đắp kho tàng này không bao giờ là đủ mà phải được thực hiện liên tục, thường xuyên suốt cuộc đời. Bởi vậy tôi luôn tìm đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, xem các tài liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Giáo viên có yêu lịch sử thì mới có thể truyền được tình yêu đó đến học sinh của mình bởi vì ở cấp tiểu học các em xem giáo viên như thần tượng, như một chuẩn mực để các em hướng đến, các em bắt chước, làm theo như giáo viên. Mặc dù trường tôi đang thực hiện mô hình dạy học mới VNEN trong đó học sinh chủ động học tập tuy nhiên giáo viên vẫn đóng vai trò quan trọng. Lời giảng của giáo viên rõ ràng, truyền cảm sẽ gây được sự chú ý của học sinh.
 Bản thân tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tài liệu, nắm vững các kiến thức cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo hệ thống kiến thức chính xác, có hệ thống để từ đó có phương pháp giảng dạy thích hợp.
 GV phải hiểu và tái hiện được bức tranh lịch sử một cách sinh động, chân thực bởi dạy lịch sử phải đảm bảo tính chính xác, nói đúng sự thật, điều đó có tác dụng giáo dục niềm tin và gây hứng thú học tập, từ đó sẽ phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy tôi không ngừng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, khi dạy phải có dẫn chứng minh họa cụ thể vì “Nói có sách, mách có chứng” thì mới thể hiện tính chân thực của lịch sử và như thế mới thuyết phục được học sinh.
Chẳng hạn khi dạy bài “ Nước Đại Việt thời Lý” (Lịch sử lớp 4, tập 1, trang 45), người giáo viên phải giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử của sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đại nhà Lý. Cụ thể là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để dẫn dắt HS đi từ các vấn đề lịch sử: Năm 1005 vua Lê Đại Hành mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi. Nhà vua tính tình bạo ngược nên lòng dân oán hận. Không lâu sau Lê Long Đĩnh mất. Trước tình hình đó triều đình cử một vị quan là Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Ông là người thông minh, văn võ song toàn, đức độ cảm hóa được lòng người.
 Qua những bài học Lịch sử, tôi luôn khơi dậy những tình cảm của học sinh đối với nhân vật, sự kiện lịch sử. Qua đó, giáo dục tinh thần đoàn kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp nhất đồng thời tôi sử dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi, theo hình thức cá nhân, nhóm 2 hay nhóm 4.để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Việc linh hoạt tổ chức đối tượng học sinh hoạt động theo nhóm cũng cần được quan tâm, tránh áp đặt cố định số lượng hoặc trình độ học sinh hay để học sinh quá đông trong một nhóm. Hệ thống câu hỏi cũng được tôi lựa chọn kĩ lưỡng, tôi thường xây dựng những câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, vừa sức, đi từ dễ đến khó và cần nhất là nổi bật trọng tâm bài học.
 Ví dụ: Nếu giải quyết chung một đề tài khó, cần có sự đan xen về trình độ học sinh trong cùng một nhóm để các em hỗ trợ cho nhau. Nhưng cũng có lúc, tôi tạo điều kiện cho các em học sinh còn chậm, còn nhiều hạn chế cùng làm việc với nhau theo nhóm và dành riêng cho các em một đề tài dễ hơn . Đây cũng là lúc tôi phát huy vai trò của mình “ Dạy học phân hóa đối tượng học sinh.” 
 Trong quá trình giảng dạy, tôi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học qua từng hoạt động học tập. Phân chia thời gian hợp lý. Có hình thức khen thưởng, khuyến khích học sinh tích cực phát biểu ý kiến, tham gia xây dựng bài, tránh tối đa hình thức xử phạt, la mắng.	
 * Về phía học sinh
 Phải thay đổi nhận thức về môn Lịch sử bởi đây chính là môn học giúp HS tìm về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là môn học bổ trợ kiến thức cho các môn học khác.
 HS phải có sự chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể lịch sử, xem phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào lớp chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác với các bạn trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội dung bài học.
 	b.2. Sử dụng kênh hình hiệu quả
Cũng giống như một số môn học khác, trong SGK Lịch sử 4, kênh chữ giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn có vai trò quan trọng; nó không chỉ minh hoạ cho kênh chữ, mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Trong giờ dạy Lịch sử, có những giáo viên không hiểu kênh hình nên không khai thác được kênh hình với đúng vai trò của nó mà chỉ đưa ra như một sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngoài tính minh hoạ mỗi bức tranh, bức ảnh còn hàm chứa những thông tin lịch sử với mức độ khác nhau phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Tôi phân loại kênh hình trong sách giáo khoa phân môn Lịch sử lớp 4 như sau: 
- Loại thứ nhất là bản đồ, lược đồ: Chủ yếu được bố trí ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị trí của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh Khi khai thác lược đồ giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa của cách chọn vị trí trận địa, việc bố phòng và hướng tấn công của hai bên qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự mưu lược và nghệ thuật quân sự tài tình của những vị tướng chỉ huy trận đánh cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em. 
Ví dụ ở bài: “Nước Đại Việt thời Lý (từ năm 1009 đến năm 1226) khi hướng dẫn trên lược đồ người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ cho học sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch của ta một cách đơn thuần mà còn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu thâm độc của địch và bằng nghệ thuật quân sự tài tình Lý Thường Kiệt đã đập tan âm mưu của chúng. Thông qua lược đồ HS tường thuật lại diễn biến của trận đánh trên sông Như Nguyệt.
Lược đồ trận chiến tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
- Loại kênh hình thứ hai là tranh, ảnh tư liệu: Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về các thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuậtcủa mỗi triều đại ứng với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này người giáo viên phải am hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc giảng dạy đạt hiệu quả cao. Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc, kiến trúc, các giá trị văn hoá phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên vì đây là những lĩnh vực không dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học sinh, nhất là học sinh tiểu học.Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên sách báo và trên các trang mạng. Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt phải bằng các hình ảnh tư liệu trực quan.
Ví dụ: Khi dạy bài “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê” tôi cho HS quan sát tranh, ảnh về văn miếu Quốc Tử giám, các tấm bia tiến sĩ trong văn miếu để HS hiểu hơn về trường học và việc tổ chức thi cử ở thời Hậu Lê.
Văn Miếu Quốc Tử Giám
 Bia tiến sĩ trong Văn Miếu
 	- Loại kênh hình thứ ba là ảnh chân dung nhân vật lịch sử: Đây là ảnh của các nhân vật lịch sử trong loại bài dạy về nhân vật lịch sử. Số bài dạy về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 4 không nhiều. Cái mới của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật lịch sử thông qua và gắn liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân vật lịch sử như trong chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của nhân vật phục vụ bài dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư chất, nhân cách nhân vật nhưng không quá xa đà, không tách rời nhân vật lịch sử ra khỏi mối quan hệ với thời đại của nhân vật và sự kiện lịch sử mà nhân vật có vai trò quyết định. 
Ví dụ khi dạy một số bài: “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê (giới thiệu chân dung nhân vật Nguyễn Trãi), Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (giới thiệu anh hùng Nguyễn Huệ- Quang Trung). Đây là những bài gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của các nhân vật Lịch sử tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các hình ảnh, chân dung các nhân vật lịch sử và có sự so sánh vai trò của họ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
Nguyễn Trãi
b.3.Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử
Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ làm cho giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh hơn và cuối cùng là làm cho tiết dạy - học Lịch sử mang lại hiệu quả cao hơn. Thường là việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ, văn về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng có khi là cả trong phần chính của bài. 
Ví dụ khi dạy về “ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” Sau khi kể nguyên nhân Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa tôi đọc cho học sinh nghe 1 số câu thơ: “Giận thay Tô Định bạo tàn. Nay ta dấy nghĩa diệt loài sói lang ! Một xin rửa sạch nước thù. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”. Tôi cố gắng đọc thật truyền cảm, khi đọc với giọng căm hờn, có lúc lại đọc với giọng quyết tâm tạo được sự tập trung chú ý của HS đồng thời cũng giúp các em hiểu rõ hơn nguyên nhân nổ ra cuộc khởi nghia Hai Bà Trưng.
Thường thì các anh hùng dân tộc và các sự kiện lịch sử hào hùng của ông cha ta đều được phản ánh trong văn học nên rất dễ để người giáo viên lựa chọn những câu thơ hay, những đoạn trích hay, phù hợp, trong các tác phẩm văn học đưa vào bài giảng của mình, làm cho tiết dạy - học Lịch sử có được những hiệu ứng mà một tiết dạy sử thông thường không thể đạt được. Mặt khác, các bài thơ gắn với các sự kiên lịch sử giúp cho các em dễ nhớ các sự kiện lịch sử đã học vừa bổ trợ thêm các kiến thức về văn học, cảm thụ văn học cho các em. 
Ví dụ: khi dạy về cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ 2. Trong khi kể cho HS nghe về diễn biến của trận chiến trên sông Như Nguyệt tôi kết hợp đọc (hoặc ngâm) bài thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận ở sách trời, Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Tôi thấy HS như bị cuốn hút vào bài giảng của tôi, các em chăm chú lắng nghe và nhớ kiến thức lâu hơn.
b.4. Chia các bài học thành các dạng bài cơ bản và đưa ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó
 * Dạng thứ nhất: Dạng bài về thành tựu kinh tế – chính trị, văn hoá - xã hội.
 	Nội dung chính: 
- Hoàn cảnh ra đời của thành tựu đó. 
- Vài nét tiêu biểu của thành tựu. 
- Giá trị thực tiễn của thành tựu.
- Kết quả, ý nghĩa của thành tựu. 
Gồm các bài dạy: Nước Đại Việt thời Lý, Nước Đại Việt thời Trần, Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê. Trịnh - Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.
 	Vấn đề cần lưu ý: Phải mô tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân. Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó. 
Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, vấn đáp, tìm tòi, thảo luận nhóm, sử dụng đồ dùng dạy học. 
Ví dụ: Bài “Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát triển của thành thị.” Để các em mô tả đúng ba thành thị lớn của nước ta thế kỉ XVI – XVII. Tôi đưa ra bài tập sau: 
Điền các thông tin vào bảng dưới đây:
 Đặc điểm
Thành thị
Dân cư
Quy mô thành thị
Hoạt động
buôn bán
Thăng Long
 Phố Hiến
Hội An
Tôi tiến hành theo các bước sau: 
- Trước hết tôi yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, kết hợp quan sát các tranh về ba thành thị này, thảo luận nhóm 4 hoàn thành bảng thống kê trên
- Tôi yêu cầu mỗi nhóm mô tả về một thành thị.
- Nhận xét, tuyên dương nhóm mô tả đúng, đầy đủ.
Cách học này giúp các em mô tả đúng về thành thị và ghi nhớ kiến thức đã học.
* Dạng thứ hai: Dạng bài về nhân vật lịch sử.
 	Nội dung chính: 
- Nhân vật lịch sử nảy sinh trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào? 
- Hoàn cảnh cụ thể của nhân vật (tên, nơi sống, nguyện vọng ) 
- Suy nghĩ, hành động cụ thể của nhân vật
- Những đóng góp của nhân vật. 
 	Gồm các bài dạy: “Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập, Buổi đầu độc lập, Nước Đại Việt thời Lý, Nhà Hồ, Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê, Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn.
Vấn đề cần lưu ý: Ở dạng bài này GV cần khai thác tốt hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử. Cho HS biết nhân vật lịch sử là người như thế nào? (sinh năm nào, ở đâu, làm gì, có đặc điểm tính cách gì nổi bật, đời sống nội tâm, tư tưởng, tình cảm thế nào, tài năng đức độ ra sao? Có những cống hiến to lớn gì cho đất nước?) Qua đó GV tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho HS về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử. 
Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, sắm vai
GV yêu cầu học sinh sưu tầm tranh, ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Kết hợp đọc SGK trước ở nhà để nắm được nội dung bài mới về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử trước khi đến lớp. Trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử nào đó, GV cần cung cấp thông tin để HS biết được những nét sơ lược về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt động. Sau đó cho học sinh tự trình bày hiểu biết của mình về nhân vật lịch sử đó. Đối với những bài học trong đó có các nhân vật có những câu nói nổi tiếng thể hiện phẩm chất cao quý của nhân vật có thể cho HS đóng vai để diễn lại.
Ví dụ: Để giới thiệu về Ngô Quyền tôi yêu cầu HS sưu tầm tranh ảnh về nhân vật này (tôi dặn HS chuẩn bị trước), kết hợp đọc thông tin SGK, kể những điều em biết về Ngô Quyền: Ngô Quyền quê ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông là người có tài nên được Dương Đình Nghệ gả con gái cho
* Dạng thứ 3: Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh.
Nội dung chính: 
- Nguyên nhân diễn ra cuộc khởi nghĩa.
- Diễn biến của cuộc khởi nghĩa. 
- Kết qủa, ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa đó. 
 Gồm các bài dạy: “Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập (Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Trận Bạch Đằng năm 938), Buổi đầu độc lập (cuộc kháng chiến chống quân Tống), Nước Đại Việt thời Lý (cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2), Nước Đại Việt thời Trần (cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên), Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời kì Hậu Lê (trận Chi Lăng), Phong trào Tây Sơn và vương triều Tây Sơn (Quang Trung đại phá quân Thanh).
Vấn đề cần lưu ý: GV cần giúp HS khai thác tốt bản đồ, lược đồ, mô hình, sa bàn,về các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh để các em hiểu được vì sao lại diễn ra cuộc khởi nghĩa đó, ai là người chỉ huy trong trận đánh đó, kết quả ra sao và cuộc khởi nghĩa đó có ý nghĩa gì. 
Phương pháp dạy học đặc trưng cho dạng bài này là: Kể chuyện, quan sát, thảo luận nhóm, vấn đáp, tường thuật.
Ví dụ: Khi dạy Chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Tôi cho HS kể những điều em biết về Ngô Quyền, sau khi HS kể xong tôi hỏi: Nguyên nhân nào diễn ra trận Bạch Đằng năm 938? (HS trả lời dựa vào phần thông tin đã đọc và nghe bạn kể). Hay các em muốn biết diễn biến của trận Bạch Đằng, thì các em phải đọc thầm kênh chữ trong SGK và kết hợp quan sát tranh minh họa.
Lược đồ trận Bạch Đằng năm 938
Trận Bạch Đằng năm 938 (trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Sau đó từng nhóm HS sẽ thảo luận nội dung trong phiếu học tập như sau:
Câu hỏi
Trả lời
1. Lực lượng quân giặc như thế nào?
2. Tướng giặc do ai chỉ huy ?
3. Ngô Quyền dùng kế gì để đánh giặc ?
4. Thuật lại diễn biến của trận Bạch Đằng
5. Kết quả
Sau khi làm xong, các nhóm dựa vào kết quả thảo luận báo cáo kết quả làm việc của nhóm. Tôi chọn 1-2 nhóm làm tốt thi đua thuật lại diễn biến của trận Bạch Đằng năm 938. Cách làm này giúp HS ghi nhớ bài tốt hơn.
 	Hoặc khi dạy bài 7: “Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại V

Tài liệu đính kèm:

  • docPHAMTHITHUYLAN_CHUYENMON_LITUTRONG_2015.doc