SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi người dân tộc thiếu số học tốt môn Khám phá khoa học Tại trường MN Bình Minh- Buôn Tuôr A - Đray Sáp - Krông Ana - Đăk Lăk

SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi người dân tộc thiếu số học tốt môn Khám phá khoa học Tại trường MN Bình Minh- Buôn Tuôr A - Đray Sáp - Krông Ana - Đăk Lăk

Kết hợp với phụ huynh trong việc hướng dẫn trẻ khám phá khoa học.

Trẻ mầm non dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên. Vì thế, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón - trả trẻ để hiểu được tính cách, năng lực, trình độ của từng cá nhân trẻ và để phụ huynh rèn luyện thêm cho trẻ khi về nhà.

Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ thông qua phụ huynh. Ví dụ: trẻ A, trẻ B rất thích đọc câu đố về con vật, câu đố về các bộ phận trên cơ thể cho bố mẹ, ông bà nghe; trẻ C, trẻ D rất hay hỏi những người lớn trong nhà về những gì lạ xung quanh

Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách tranh, ảnh hoặc lô tô về con vật, cây cỏ, phương tiện giao thông .phù hợp với lứa tuổi giúp trẻ mở rộng biểu tượng về sự vật xung quanh. Tạo một góc bảng tin ở trước lớp tuyên truyền treo ngay ở cửa ra vào để phụ huynh dễ nhìn thấy. Trong đó có ghi thông tin về tình trạng sức khỏe, tình hình học tập của trẻ và một số kiến thức về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Ngoài ra, tôi đã lồng ghép tên các hoạt động trong ngày, trong tuần vào một bông hoa, đặc biệt là hoạt động khám phá khoa học và viết cụ thể những điều trẻ được học ở phía dưới. Ở đó, tôi dán các bức tranh, hình ảnh về quá trình trẻ tham gia học, làm thí nghiệm, dạo chơi quan sát ngoài trời để phụ huynh biết được ở lớp con em mình thường xuyên được trải nghiệm các hoạt động. Từ đó, tạo thêm lòng tin ở phụ huynh và khi về nhà họ có thể kết hợp với giáo viên củng cố thêm cho trẻ bằng nhiều hình thức. Điều này góp phần giúp trẻ ngày càng học tốt môn khám phá khoa học tại trường, lớp.

 

doc 25 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 749Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 tuổi người dân tộc thiếu số học tốt môn Khám phá khoa học Tại trường MN Bình Minh- Buôn Tuôr A - Đray Sáp - Krông Ana - Đăk Lăk", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cho trẻ tham gia phù hợp với lứa tuổi, chủ đề, chủ điểm và tâm sinh lý của trẻ.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động, giáo viên và trẻ có thể tự tạo.
* Hạn chế. 
Khoảng 30% trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động.
Một số phụ huynh học sinh thờ ơ với việc đưa con em mình đến lớp. Cho trẻ ở nhà đi lên nương, lên rẫy theo bố mẹ.
Một số đồ dùng phục vụ cho các hoạt động khám phá còn chưa có như: kính lúp,..và môi trường hoạt động chưa phong phú.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu.
* Mặt mạnh.
Đa số trẻ thích tham gia vào các hoạt động ở trường lớp.
Trường học khang trang, thoáng mát phù hợp cho trẻ tham gia vào các hoạt động..
Giáo viên có khả năng dạy trẻ tham gia vào các hoạt động, biết cách chăm sóc và bảo vệ trẻ. Có khả năng tạo các bài giảng điện tử dạy cho trẻ. Vì vậy trẻ rất tích cực và thích tham gia vào hoạt động.
* Mặt yếu.
Học sinh trong lớp 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh còn hạn chế, khả năng diễn đạt của trẻ chưa lưu loát. Chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình.
Giáo viên còn lúng túng trong một số hoạt động cho trẻ làm quen, chưa sưu tầm một số bài thơ, câu đố tích hợp vào bài dạy.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến thực trạng.
Trang thiết bị công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động khám phá của cô và trẻ còn thiếu như một số dụng cụ phục vụ cho thí nghiệm.
Giáo viên chưa thực sự sáng tạo, linh hoạt trong giảng dạy, chưa biết cách thu hút trẻ vào hoạt động, chưa sáng tạo trong việc làm đồ dùng, đồ chơi. Giáo viên đang còn lúng túng trong cách lựa chọn các hình thức cho tiết học, bên cạnh đó là cách sử dụng đồ dùng trực quan chưa phát huy đượ hết công dụng của đồ dùng sẵn có trong thực tế. 
Tiết học tổ chức nhưng dụng cụ học tập chưa sinh động, giờ học trở nên khô khan, cứng nhắc, do đó kiến thức, kỹ năng mà trẻ thu được trên tiết học còn chưa đáp ứng được với yêu cầu kiến thức của đề tài đặt ra cho trẻ đây cũng là yếu tố ảnh đến đề tài.
100% trẻ có bố, mẹ là nông dân ở vùng khó khăn, người dân tộc thiểu số, ít có thời gian quan tâm đến con cái. Đa số trẻ còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn tham gia vào một số hoạt động ở trường, lớp. Trẻ hạn chế về tiếng Việt, nói năng diễn đạt còn hạn chế.
Trẻ cùng một độ tuổi nhưng nhận thức của trẻ chưa được đồng đều. Trẻ phát âm chưa chuẩn chiếm 30 %, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi vẫn còn cao so với những khu vực khác nên tình trạng sức khỏe trẻ không ổn định cũng là yếu tố ảnh hưởng ít nhiều đến thực trạng của đề tài.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.
Như chúng ta đã biết thực trạng về việc “Giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học” đã đặt ra rất nhiều vấn đề đòi hỏi người thực hiện đề tài cần phải phân tích, đánh giá để người đọc hiểu được thực trạng cần thiết của vấn đề.
Từ thực trạng thuận lợi, thành công, mặt mạnh của đề tài đã tạo được môi trường hoạt động khám phá khoa học ở lớp cho trẻ tương đối phong phú. Tạo được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh học sinh khi gửi con em mình đến trường, lớp. Tỉ lệ trẻ 5 tuổi ra lớp 100%, tăng so với các năm trước. Giáo viên chọn hoạt động cho trẻ khám phá khoa học phù hợp theo đặc điểm của trẻ vùng dân tộc thiểu số. Luyện cho trẻ quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý. Dạy trẻ tích lũy vốn từ về các sự vật, hiện tượng, con người xung quanh trẻ chính xác phù hợp với từng hoạt động. Luôn quan tâm đến việc sử dụng câu từ, cách phát âm của trẻ, sửa sai kịp thời. 
Ví dụ: Khi tham gia hoạt động khám phá khoa học, một số trẻ phát âm chưa đúng từ như: “Con khỉ” trẻ phát âm thành “con khi”, chữ “hôm qua” trẻ phát âm thành “hôm toa” cô sửa sai và cho trẻ phát âm lại nhiều lần theo cô.
Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp đặc biệt là những đồng nghiệp giảng dạy lâu năm trong trường nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Tuy nhiên khó khăn, hạn chế và mặt yếu cũng là những thực trạng quan trọng đã làm cho việc “Khám phá khoa học của trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số tại trường MN Bình Minh ” gặp không ít những trở ngại như: Vốn từ của trẻ còn nghèo nàn, phụ huynh học sinh phần lớn là lao động nghèo, chưa có ý thức cao trong việc đưa con em mình đến trường học. Trẻ còn theo bố mẹ lên nương, rẫy để chăn trâu, chăn bò, hái điều. Trẻ còn nhút nhát, hạn chế hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung quanh chiếm tỉ lệ cao: 50% (qua kết quả khảo sát trước khi thực hiện)
Đánh giá được tầm quan trọng của thực trạng, từ đó có phương pháp, biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề và mang lại hiệu quả cao cho đề tài khi nghiên cứu. Đó chính là “Giúp trẻ 5-6 tuổi người tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học tại trường MN Bình Minh”. Vốn từ của trẻ tăng, ngôn ngữ, hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung quanh, khả năng quan sát, so sánh, phân loại, trẻ thích khám phá các sự vật, hiện tượng xung quanh, giải thích được mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả đơn giản trong cuộc sống hằng ngày của trẻ phát triển dần theo chiều tiến bộ qua từng giai đoạn, qua từng lứa tuổi . Trẻ tự tin tham gia vào các hoạt động bằng vốn từ, kiến thức, nhận thức trẻ tích lũy được.
3. Giải pháp, biện pháp.
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Thông qua mọi hoạt động ở trường mầm non sẽ góp phần giúp trẻ phát triển vốn từ, giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc theo nguyên tắc đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, chính xác mang tính khoa học nhưng phải theo nguyên tác vừa sức, không mang tính trừu tượng khó hiểu và khô khan.
Phát triển toàn diện 5 mặt phát triển cho trẻ nhằm hoàn thiện nhân cách và kỹ năng sống cho trẻ.
Giúp trẻ tham gia vào các hoạt động với tâm thế phấn khởi, vui tươi, thích thú, phát triển các khả năng của trẻ như: quan sát, so sánh, ghi nhớ, chú ý
Thúc đẩy quá trình học tập của trẻ ở trường lớp ngày càng đạt kết quả tốt hơn. Bởi vì khi trẻ tham gia vào tất cả các hoạt động thì bắt buộc trẻ phải tư duy, nhận biết, ghi nhớ và đó cũng là tiền đề để trẻ tiếp tục phát triển ở phổ thông sau này. Giáo dục trẻ sống gần gũi với thế giới xung quanh trẻ.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số trường MN Bình Minh học tốt môn Khám phá khoa học là luyện cho trẻ tư duy, ghi nhớ về thế giới xung quanh trẻ. Muốn cho trẻ đạt được kết quả cao nhất chúng ta cần phối hợp sử dụng các giải pháp, biện pháp sau:
*Biện pháp 1: Làm giàu vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh.
Biểu tượng về thế giới xung quanh đa dạng đến với trẻ qua nhiều hình thức: Câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đồng dao, tranh ảnh, đồ vật, vật thật  Giúp trẻ không bị nhàm chán, lại dễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và chính xác hoá thành biểu tượng của mình.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen với con cua, ta đặt câu đố: 
“ Con gì tám cẳng hai càng.
Đầu thì không có bò ngang cả đời”
Trẻ đoán ngay được đó là con cua vì trong đầu trẻ, biểu tượng về con cua được hiểu chính xác là con cua có hai càng to, có tám chân, lại bò ngang nữa .
Cho trẻ làm quen với con cá, tôi dùng câu đố:
“Con gì có vẩy có vây
Không đi trên cạn mà đi dưới hồ ”
Trẻ trả lời đó là con cá. Nhưng trẻ lại biết thêm con cá có đặc điểm cụ thể, có vây có đuôi, vẩy, môi trường sống của chúngTừ đó trẻ có thể so sánh xem con cá và con cua có đặc điểm gì giống nhau, khác nhau ? Sau đó trẻ tiến hành phân nhóm dễ dàng hơn.
Ngoài ra tôi còn dùng cách khác để vào bài cung cấp biểu tượng thế giới xung quanh cho trẻ, qua hình ảnh mô hình, con vật thật 
Thông qua chủ đề: Thế giới thực vật. Cô cho trẻ xem tranh ảnh liên quan đến môi trường, tranh, ảnh sưu tầm trên mạng Internet, cho thấy được sự tương phản giữa môi trường có nhiều cây xanh, hoa cỏ và môi trường thiếu cây xanh, hoa cỏ. Qua đó, cho trẻ nói lên những suy nghĩ của mình về môi trường đó. Từ đó rút ra kết luận.
Thông qua hoạt động vui chơi ngoài trời giáo viên cho trẻ khám phá về một số loại cây như: cây ăn quả; cây lấy gỗ và cho bóng mát, cây ăn rau, cây làm thuốc để chữa bệnh. Giáo viên cung cấp thêm kiến thức cho trẻ ăn rau nhiều sẽ cung cấp Vitamin cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau.
Giáo viên tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động như: Vẽ, tô màu, cắt, dán tranh ảnh về cây xanh, hoa. Xây mô hình vườn cây ăn quả, xây mô hình vườn rau
Chơi trò chơi: “Cây nào quả ấy”, “Gắn quả cho cây” Sau khi cung cấp kiến thức cơ bản về cây, hoa, cô và trẻ cùng dành một khoảng thời gian để thảo luận cùng nhau, cô đặt ra tình huống để trẻ giải quyết vấn đề như:
Cây cần gì để lớn lên? Để có những loại quả ngon cho chúng ta ăn, chúng ta cần phải làm gì? Nếu không có cây xanh thì môi trường sẽ như thế nào? 
Rừng cung cấp gì cho chúng ta? Nếu rừng bị tàn phá thì ảnh hưởng gì đến con người, động vật Để trẻ dễ dàng tiếp nhận vấn đề, trong quá trình sinh hoạt hằng ngày, cô giới thiệu đối tượng cho trẻ tiếp cận. Qua đó giáo dục trẻ về vấn đề chăm sóc, bảo vệ cây xanh. Nếu khai thác, chặt phá cây xanh bừa bãi sẽ gây lũ lụt, ô nhiễm môi trường. Tuyên truyền việc trồng cây gây rừng.
* Biện pháp 2: Cho trẻ tiếp xúc nhiều lần với đối tượng cần khám phá.
Cho trẻ tiếp xúc nhiều lần với với đối tượng cần khám phá bằng cách nhìn, sờ, nếm, ngửi.các vật thật nhằm kích thích trẻ ghi nhớ, tích lũy kiến thức.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát hai bình nuôi cá, một bình có nước và một bình không có nước. Sau một thời gian quan sát xem điều gì xảy ra (bình cá không có nước thì cá sẽ chết). Từ thí nghiệm trên, trẻ sẽ biết được sự cần thiết của nước đối với đời sống động vật, thực vật. Qua đó, giáo dục trẻ nếu ở nhà có nuôi cá thì không được bắt cá lên để chơi và thường xuyên phải thay nước để tạo môi trường sống sạch sẽ cho cá.
Ngoài ra, cô có thể cho trẻ biết lợi ích của việc nuôi cá cảnh (nuôi cá cảnh không chỉ để làm cảnh mà còn để tiêu diệt bọ gậy, hạn chế sự sinh trưởng của muỗi vằn góp phần giảm bệnh sốt xuất huyết).
Đối với các loại quả, giáo viên cho trẻ quan sát vật thật như sờ, ngửi, nếm rồi cho trẻ đưa ra nhận xét các loại quả có đặc điểm, mùi vị, màu sắc, hình dáng như thế nào, dạy trẻ cách ăn quả cho hợp vệ sinh, kỹ năng ăn uống có văn hóa.
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã nngoại  khi trẻ quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn đối tượng đó.
Ví dụ: Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng, hướng trẻ nhận biết màu sắc cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng cưa. Ngửi hoa có mùi thơm.
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh .
* Biện pháp 3: Tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm, suy luận, phán đoán và đưa ra kết luận.
Cho trẻ xem một số thí nghiệm thông qua các chủ đề như sau: 
Chủ đề: Các hiện tượng thiên nhiên. Cô làm thí nghiệm “Sự bốc hơi của nước”. Giáo viên cho nước đun sôi vào 1 cái ly thủy tinh, trẻ lấy nắp đậy kín lại. Sau một hồi quan sát mở nắp ly ra sẽ thấy nước bám vào nắp. Cô hỏi trẻ “Tại sao nước lại bám vào nắp”? (trẻ đưa ra ý kiến theo suy nghĩ của trẻ. Sau đó, cô tổng hợp ý kiến và đưa ra kết luận là do nước bốc hơi nên bám vào nắp). 
Chủ đề: Thế giới thực vật: Cô và trẻ tiến hành gieo ba hạt đậu đen ở góc thiên nhiên. Hàng ngày cô và trẻ theo dõi, quan sát sự phát triển của cây. Sau khi cây nảy mầm thì mang cây vào trồng trong ba cái chậu: Một chậu thường xuyên được tưới nước, có ánh sáng, không khí. Một chậu có ánh sáng, không khí nhưng không tưới nước. Một chậu có nước, có không khí nhưng không có ánh sáng. Cô giao nhiệm vụ cho các tổ quan sát và nhận xét về các chậu cây: 
Sau một thời gian chậu cây nào tươi tốt? vì sao?
Để cây xanh phát triển tốt, ta phải làm thế nào?
Từ những ý kiến của trẻ, giáo viên tổng hợp lại và đưa ra kết luận chung: Muốn cây xanh phát triển tốt thì ta phải cung cấp đầy đủ đất, nước, ánh sáng, không khí.
* Biện pháp 4: Biện pháp cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hàng ngày của trẻ.
Đây là một trong những biện pháp tốt nhất để giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học mà không thấy nhàm chán. Thông qua các giờ đón - trả trẻ tôi có thể cho trẻ xem một số tranh ảnh đẹp và gọi tên hình ảnh trong tranh. 
Ví dụ: Trong giờ đón trẻ. Cô hỏi hôm nay Y Khim thấy có gì mới? trẻ trả lời có nhiều tranh về thế giới động vật đẹp. 
Trong giờ hoạt động ngoài trời cho trẻ đọc câu đố, hò vè đoán nhau, luyện phát âm cho trẻ và tích lũy từ mới.
Ví dụ: Cho cháu đọc câu đố về con vật trong chủ đề thế gới động vật
Con gì có cánh,	Ngày xuống ao chơi,
Mà lại biết bơi,	`	Đêm về đẻ trứng.
Hoạt động làm quen văn học: Cho cháu đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch, kể chuyện sáng tạo theo chủ đề chủ điểm. Nhằm tích lũy cho trẻ về tên gọi của động thực vật, các sự vật hiện tượng
	Hoạt động vui chơi: Thông qua việc “Học mà chơi, chơi mà học”. Bởi vì nó có thể thay thế được toàn bộ hoạt động của cô và trẻ trong tiết học thông qua các trò chơi giúp trẻ củng cố, tiếp thu kiến thức, kỹ năng một cách nhẹ nhàng, trẻ có cảm giác chơi nhưng thực chất là học.
Không chỉ những hoạt động nêu trên mà còn rất nhiều hoạt động trong ngày ở trường mầm non để giúp trẻ học tốt môn Khám phá khoa học. Vì vậy tôi thường xuyên quan sát trẻ, ghi chép vào sổ để theo dõi, đánh giá quá trình phát triển, những kĩ năng cần thiết chuẩn bị cho việc khám phá các hoạt động tiếp theo của trẻ nhằm điều chỉnh các biện pháp giáo dục đối với từng cá nhân trẻ cho phù hợp và đạt được chất lượng tốt hơn.. 
* Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giúp trẻ học tốt môn Khám phá khoa học.
	Tâm lý trẻ vốn hiếu động, thích tò mò, ham hiểu biết và nhạy cảm nên tiếp thu công nghệ thông tin chẳng mấy khó khăn. Muốn thực hiện được ứng dụng công nghệ thông tin trong việc chăm sóc giáo dục trẻ thì trước tiên giáo viên phải biết sử dụng máy vi tính. Bản thân tôi đã được dạy nhiều tiết giáo án điện tử cho chị em trong trường dự. Qua các tiết dạy giáo án điện tử đa số trẻ rất hứng thú tham gia và kết quả đạt được trên trẻ cũng rất cao.
Tôi còn tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ máy vi tính cho lớp và sắp xếp lịch học trên máy cho trẻ. Trẻ được tham gia vui chơi với những trò chơi vô cùng lý thú, hấp dẫn học mà chơi, chơi mà học như: 
Trò chơi học tập: “Ghép đúng hình”. Chủ đề phương tiện và luật lệ giao thông. Trong tiết Khám phá về một số phương tiện giao thông (cô đóng vai cảnh sát giao thông)
Cách chơi: Trẻ sẽ Clich con chuột và bấm chọn các hình có sẵn trên máy (hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, hình ô van) để tạo thành chiếc ô tô, tàu lửa, con chim, con cá, con bướm.
Sau khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ chơi, giáo viên hỏi trẻ: Cháu đã ghép thành hình gì? Trẻ trả lời: Cháu ghép hình ô tô. Vậy ô tô cháu ghép từ những hình nào? Trẻ kể tên hình. Ngoài ra, theo sự hướng dẫn của cô, trẻ còn thao tác được nhiều hoạt động khác trên máy, từ đó tạo được sự chú ý, lôi cuốn trẻ vào tiết học và tiết học đạt được kết quả cao hơn.
 Tương tự giáo viên cho trẻ tham gia vào nhiều trò chơi khác như:
Trò chơi: “Cái gì đã thay đổi” ; “Gặp gỡ bạn mới” 
Và còn nhiều trò chơi khác nữa trẻ vô cùng hứng thú và rất thích đến trường để học. Từ những trò chơi giúp trẻ phát triển khả năng quan sát, so sánh, phân loại, nhận xét, chú ý.. tùy thuộc vào sự sáng tạo của cô và mục đích cô đặt ra phát triển, củng cố những gì cho trẻ.
* Biện pháp 6: Kết hợp với phụ huynh trong việc hướng dẫn trẻ khám phá khoa học.
Trẻ mầm non dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên. Vì thế, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón - trả trẻ để hiểu được tính cách, năng lực, trình độ của từng cá nhân trẻ và để phụ huynh rèn luyện thêm cho trẻ khi về nhà.
Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ thông qua phụ huynh. Ví dụ: trẻ A, trẻ B rất thích đọc câu đố về con vật, câu đố về các bộ phận trên cơ thể cho bố mẹ, ông bà nghe; trẻ C, trẻ D rất hay hỏi những người lớn trong nhà về những gì lạ xung quanh
Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách tranh, ảnh hoặc lô tô về con vật, cây cỏ, phương tiện giao thông.phù hợp với lứa tuổi giúp trẻ mở rộng biểu tượng về sự vật xung quanh. Tạo một góc bảng tin ở trước lớp tuyên truyền treo ngay ở cửa ra vào để phụ huynh dễ nhìn thấy. Trong đó có ghi thông tin về tình trạng sức khỏe, tình hình học tập của trẻ và một số kiến thức về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Ngoài ra, tôi đã lồng ghép tên các hoạt động trong ngày, trong tuần vào một bông hoa, đặc biệt là hoạt động khám phá khoa học và viết cụ thể những điều trẻ được học ở phía dưới. Ở đó, tôi dán các bức tranh, hình ảnh về quá trình trẻ tham gia học, làm thí nghiệm, dạo chơi quan sát ngoài trờiđể phụ huynh biết được ở lớp con em mình thường xuyên được trải nghiệm các hoạt động. Từ đó, tạo thêm lòng tin ở phụ huynh và khi về nhà họ có thể kết hợp với giáo viên củng cố thêm cho trẻ bằng nhiều hình thức. Điều này góp phần giúp trẻ ngày càng học tốt môn khám phá khoa học tại trường, lớp.
Việc kết hợp với phụ huynh giúp trẻ luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về tự nhiên, xã hội phong phú và đa dạng hơn. Vì trẻ ở môi trường nông thôn nên được tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, chim muông, đồng thời được bố mẹ thường xuyên cung cấp và củng cố kiến thức về môi trường xung quanh nên hiệu quả hoạt động khám phá khoa học là rất cao.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ môn học Khám phá khoa học.
	Ngày nay khi khoa học công nghệ thông tin bùng nổ, ngoài giờ học ở trường ra về nhà một số cháu thường ngồi ngay vào máy vi tính với những trò chơi phim ảnh bạo lực. Do vậy tôi cũng thường nhắc nhở phụ huynh về nhà nên cho trẻ xem những chương trình thiếu nhi như: Ai thông minh nhất, vườn cổ tích, ca nhạc thiếu nhi, kể chuyện cho bé nghenhằm tích lũy vốn từ cho trẻ và cũng để trẻ học tập theo các bạn..
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
Phải là giáo viên có trình độ chuẩn về chuyên môn, có lượng kiến thức phong phú, nắm vững phương pháp dạy trẻ khám phá khoa học, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm, có tâm huyết với nghề. Nhạy bén trong cách xử lý tình huống sư phạm, bao quát trả lời những thắc mắc của trẻ kịp thời. Có khả năng giúp trẻ tham gia hoạt động khám phá khoa học ở mọi lúc mọi nơi và biết định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động khám phá khoa học có hiệu quả.
Giáo viên phải vận động học sinh 5 tuổi người dân tộc thiểu số trong địa bàn ra lớp 100% và duy trì sĩ số từ đầu năm cho đến cuối năm học.
Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung cho trẻ tham gia khám phá, chuẩn bị bài soạn đầy đủ sáng tạo, có chất lượng. Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, tranh ảnh, thiết bị dạy học phù hợp với đề tài, nội dung dạy để giúp trẻ khám phá khoa học.
Bằng nhiều hình thức giáo viên cung cấp kiến thức, rèn luyện cho trẻ tham gia vào hoạt động khám phá khoa học một cách nhẹ nhàng, tùy từng đối tượng học sinh có phương pháp dạy thích hợp. 
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Để giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn Khám phá khoa học, đạt kết quả cao thì cần phối hợp nhiều giải pháp, biện pháp với nhau. Song những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ cho nhau. Biện pháp làm giàu vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh; biện pháp cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hằng ngày của trẻ và biện pháp kết hợp với phụ huynh trong việc hướng dẫn trẻ khám phá khoa học sẽ hỗ trợ cho các biện pháp khác. Bởi lẽ khi tạo môi trường cho trẻ khám phá khoa học tức là hoạt động khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hàng ngày tốt, thông qua các hoạt động tạo hình, văn học, thể duc.. và trò chơi trẻ đã tích lũy được một số vốn hiểu biết, trẻ giảm đi cách phát âm bị ngọng, tăng thêm phần so sánh, nhận xét, phán đoán. Như vậy khi tham gia vào tiết học trẻ sẽ mạnh dạn, tự tin có hứng thú hơn, thích tham gia vào hoạt động hơn. 
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
* Kết quả khảo nghiệm. 
Qua qu

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TƯƠI 2016 MỚI SỬA- TUOI 15-16.doc