SKKN Một số biện pháp giúp chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp lá 4 trường mầm non krông ana vào lớp một

SKKN Một số biện pháp giúp chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp lá 4 trường mầm non krông ana vào lớp một

Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với cuộc sống ở trường phổ thông:

Cuộc sống ở phổ thông khác với ở gia đình, trường mầm non. Để trẻ thích ứng được điều này cần chuẩn bị nhiều mặt:

+ Về chế độ sinh hoạt: Tạo cho trẻ một chế độ, nề nếp sinh hoạt phù hợp với độ tuổi, có hành vi văn hóa, vệ sinh như thông qua một số quy định của lớp trẻ hiểu được và chấp hành những nội quy, quy định chung của nơi trẻ đến, điều này giúp trẻ dễ dàng chấp nhận và thực hiện tốt các quy định khi bắt đầu vào lớp một.

 Rèn luyện một số kỹ năng tự phục vụ: Tự rửa tay, chân, mặt, tự mặc quần áo, đi giầy dép, tự xúc cơm, có ý thức giữ gìn vệ sinh quần áo, rèn cho trẻ ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, biết để giày dép nơi quy định, thu dọn đồ dùng đồ chơi sau khi chơi, không vứt rác bừa bãi, khạc nhổ ra sàn nhà, sân chơi, đi vệ sinh đúng nơi quy định. tất cả những thói quen này giúp trẻ tự lập và thích ứng với môi trường mới khi trẻ bước vào lớp một.

 Chuẩn bị về mặt thể chất là một việc làm hết sức quan trọng cho trẻ không chỉ dừng lại ở sự chuẩn bị về chiều cao, cân nặng mà còn là sự chuẩn bị về chất, năng lực làm việc bền bỉ, dẻo dai, có độ khéo léo của đôi bàn tay và phản xạ có tính nhanh nhạy. Đảm bảo sức khỏe tốt theo đúng các chỉ tiêu sinh lý bằng cách cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, tạo môi trường sống vui vẻ, hạnh phúc cho trẻ

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1635Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5 – 6 tuổi lớp lá 4 trường mầm non krông ana vào lớp một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huẩn bị hành trang cho con vào lớp 1. Bên cạnh đó phải kể đến một số giáo viên còn chủ quan, chưa quan tâm đến quá trình chuẩn bị tâm thế cho trẻ, tâm lý e ngại, chưa tâm huyết với nghề.
 Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn thì dễ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng đối với quá trình học tập của trẻ sau này. Trước tình hình thực tế đó, tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu đề ra những giải pháp cụ thể, nhằm giải quyết những khó khăn, tạo tâm lý sẵn sàng cho trẻ vào lớp một một cách vững vàng nhất
 Chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông là chuẩn bị toàn diện về mọi mặt không thiên về khía cạnh nào, và tuỳ theo lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mà ta áp dụng các bài tập, hoạt động có chủ đích, hoạt động vui chơi, sinh hoạt cho phù hợp. Trẻ vừa phải thông qua hoạt động vui chơi của trẻ để chuẩn bị tâm thế đến trường vừa được tiếp xúc với dạng hoạt động mới: Hoạt động học tập.
+ Dưới đây là bảng khảo sát chất lượng trước lúc thực hiện các biện pháp mới.
- Số trẻ : 32 cháu 
STT
NỘI DUNG
Kết quả
Tốt – Khá
Trung bình
YẾU
1
Phát triển về thể chất 
24 cháu
75%
7 cháu
22%
1cháu
3,1%
2
Phát triển về trí tuệ
20 cháu
62%
10 cháu
31%
2 cháu
6,2%
3
Phát triển về ngôn ngữ
25 cháu
78,2%
5 cháu
16%
2 cháu
6,2%
4
Phát triển về tình cảm- xã hội
25 cháu
78,2%
5 cháu
16%
2 cháu
6,2%
5
Các kĩ năng cần thiết cho hoạt động học tập
24 cháu
75%
6 cháu
19%
2 cháu
6,2%
 Từ kết quả như trên, tôi muốn tìm thêm nhiều biện pháp để giúp cho trẻ chuẩn bị tâm thế vào lớp 1 đạt hiệu quả cao hơn. Dựa vào vốn kiến thức đã học, qua tìm hiểu thêm một số tài liệu và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm ra một số biện pháp sau:
3. Nội dung và hình thức của giải pháp 
a. Mục tiêu của giải pháp
- Giúp trẻ có một tâm thế sẵn sàng và tâm lý vững vàng để chuẩn bị vào lớp 1.
- Phát triển cho trẻ tất cả các mặt về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội 
- Chuẩn bị một số kĩ năng cần thiết cho trẻ như tư thế ngồi, cách cầm bút, lật và xem sách trước khi bước vào lớp 1.
- Trẻ hứng thú, tích cực trong hoạt động, phát triển khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, có chủ định.
- Cung cấp những hiểu biết cơ bản cho phụ huynh khi có con em chuẩn bị bước vào lớp một.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Giải pháp 1: Chuẩn bị cho trẻ thích ứng với cuộc sống ở trường phổ thông:
Cuộc sống ở phổ thông khác với ở gia đình, trường mầm non. Để trẻ thích ứng được điều này cần chuẩn bị nhiều mặt:
+ Về chế độ sinh hoạt: Tạo cho trẻ một chế độ, nề nếp sinh hoạt phù hợp với độ tuổi, có hành vi văn hóa, vệ sinh như thông qua một số quy định của lớp trẻ hiểu được và chấp hành những nội quy, quy định chung của nơi trẻ đến, điều này giúp trẻ dễ dàng chấp nhận và thực hiện tốt các quy định khi bắt đầu vào lớp một.
 Rèn luyện một số kỹ năng tự phục vụ: Tự rửa tay, chân, mặt, tự mặc quần áo, đi giầy dép, tự xúc cơm, có ý thức giữ gìn vệ sinh quần áo, rèn cho trẻ ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, biết để giày dép nơi quy định, thu dọn đồ dùng đồ chơi sau khi chơi, không vứt rác bừa bãi, khạc nhổ ra sàn nhà, sân chơi, đi vệ sinh đúng nơi quy định.. tất cả những thói quen này giúp trẻ tự lập và thích ứng với môi trường mới khi trẻ bước vào lớp một.
 Chuẩn bị về mặt thể chất là một việc làm hết sức quan trọng cho trẻ không chỉ dừng lại ở sự chuẩn bị về chiều cao, cân nặng mà còn là sự chuẩn bị về chất, năng lực làm việc bền bỉ, dẻo dai, có độ khéo léo của đôi bàn tay và phản xạ có tính nhanh nhạy. Đảm bảo sức khỏe tốt theo đúng các chỉ tiêu sinh lý bằng cách cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, tạo môi trường sống vui vẻ, hạnh phúc cho trẻ
 Để có được tố chất đó, cần tạo một chế độ sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi, luyện tập cho trẻ một cách khoa học và hợp lý cả về thời gian cũng như phù hợp với đặc điểm phát triển riêng của từng trẻ.
 Kết hợp với nhà trường và trung tâm y tế huyện cân và khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ để chấm biểu đồ tăng trưởng đồng thời biết được tình hình sức khỏe của từng trẻ. 
Tổ chức cho trẻ tập thể dục buổi sáng để trẻ được hít thở không khí, hấp thu tiền vitamin d có lợi cho sự phát triển chiều cao. Có thể động viên trẻ, cho trẻ cùng tham gia làm một số việc giúp người lớn như : Xếp ghế chuẩn bị cho giờ ăn, phụ cô chăm sóc cây xanh,... 
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về chế độ sinh hoạt, ăn uống, nghỉ nghơi của trẻ.Những trẻ nào ăn chậm, ít ngủ, ít vận độngĐể theo dõi và có biện pháp tác động phù hợp hơn.
Tăng cường tính tự lập trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân. VD: Trẻ biết rửa tự rửa tay sau khi đi vệ sinh.
 Luyện tập thường xuyên khả năng vận động thô qua các hoạt động ngoài trời hay hoạt động thể chất có thể hướng dẫn cho trẻ tập các bài tập như : chạy sức bền, trèo lên xuống thang, đi trên ghế băng đầu đội túi cát... 
Phát triển vận động tinh, sự khéo léo của đôi bàn tay. Tập cho trẻ kỹ năng cầm bút, kéo, tập tô.. giúp trẻ phối hợp các thao tác, kỹ năng để thực hiện một hành động phức tạp.. Các vận động này sẽ giúp trẻ rèn luyện tính cẩn thận, tỉ mỉ. Ngoài ra, còn giúp trẻ hình thành tính độc lập, không phụ thuộc, ỷ lại vào người khác. 
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng đừng vội cho trẻ tập đọc, tập viết trước khi vào lớp một bởi nếu làm như vậy là ta đã làm thay, làm trước nhiệm vụ, nội dung học ở đầu tuổi học, gây hậu quả khó lường. 
 + Về quan hệ với những người xung quanh: Giúp trẻ chủ động, thiết lập mối quan hệ với mọi người xung quanh và mở rộng dần mối quan hệ đó. Khi đi học, trẻ rất muốn được các bạn chơi cùng. Vì vậy, bố mẹ nên nhắc nhở con chơi hòa đồng với các bạn, chia sẻ đồ chơi, đồ ăn với các bạn ngay từ khi còn nhỏ để con luôn được sống trong tập thể, không bị tách biệt. Không so sánh con mình với con người khác, bởi mỗi đứa trẻ có một đặc điểm tích cách và khả năng khác nhau, luôn động viên, khen ngợi khi trẻ làm các việc tốt, khích lệ trẻ cố gắng khi chưa làm được việc gì đó. Khi ở lớp, cô giáo tổ chức các hoạt động như hoạt động góc, hay trong các trò chơi, cô gợi ý để trẻ tự thỏa thuận vai chơi, nội dung chơi, đoàn kết, giúp đỡ bạn trong khi chơi. Giáo dục trẻ tạo dựng mối quan hệ tốt với bạn bè và người lớn xung quanh.
 Ví dụ: Thông qua các ngày lễ hội như 20/10,20/11, 22/12, 8/3, tôi cho trẻ làm những món quà, các tấm thiệp và trang trí vào đó những hình ảnh đẹp để gửi tặng những người thân yêu, các chú bộ đội, qua đó rèn sự quan tâm, chia sẻ với mọi người xung quanh.
 Thông qua tranh ảnh, thơ truyện: Đặt câu hỏi kích thích trẻ biểu lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình thông qua trò chơi phân vai, đóng kịch.
Tổ chức các trò chơi: Giúp trẻ tự tin và sáng tạo, tự do thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. VD: Trò chơi xếp hình, xây dựng...
+ Về tư thế tác phong: Rèn luyện cho trẻ tư thế tác phong nhanh nhẹn trong công việc, trong giao tiếp, gọn gàng trong ăn uống, vệ sinh răng miệng, đầu tóc, tự tin, tôn trọng với người khác trong giao tiếp nhưng vẫn hồn nhiên vui tươi.
 Giải pháp 2: Chuẩn bị thích ứng với môi trường hoạt động học tập:
+ Về tâm thế đến trường phổ thông: Khêu gợi ở trẻ lòng mong mỏi được đến trường như các anh chị học sinh. Tất nhiên, trẻ mới ham thích vẻ bề ngoài của người học sinh như thích cặp sách mới, thích có bàn học mới, thích bộ đồng phục, thích có anh chị lớp trên đón vào trường. Hơn thế nữa, trẻ cảm thấy được đi học là niềm hạnh phúc lớn lao, được sinh hoạt trong sao nhi đồng, được quàng khăn đỏ, được học đọc, học viết, biết làm phép tính. .. Những đó là điều rất cần cho trẻ khi đến trường. Các phụ huynh, cô giáo cần kích thích sự hiểu biết, lòng ham thích đi học của con, tránh làm cho trẻ sợ đến trường.
Trong giao tiếp, tổ chức các hoạt động, cần giúp trẻ hiểu để trở thành người tốt, người tài giỏi, làm được nhiều điều có ích cho bản thân và xã hội phải được đi học, chúng ta có thể nêu gương nhà bác sỹ giỏi, học sinh giỏi được đăng lên báo, được đưa lên truyền hình được mọi người yêu mến, từ đó củng cố niềm tin cho trẻ về tầm quan trọng của việc đi học.
Ví dụ nên kể những câu chuyện thú vị về trường Tiểu học để khơi dậy sự tò mò và mong muốn được đến trường. Với những câu hỏi mà trẻ rất quan tâm, nên nói với trẻ rằng: “Đến trường, con sẽ được biết”. Không đưa nhà trường, cô giáo ra để dọa trẻ, tạo lập cho con một không gian học gọn gàng, sạch sẽ, hãy để con tự lựa chọn bàn học, tủ sách theo sở thích. Từ đó con sẽ thích ngồi vào bàn học và luôn có ý thức giữ gìn, chăm chút cho góc học tập của mình.
+ Về hoạt động trí tuệ: Tạo cho trẻ hứng thú nhận thức các hiện tượng tự nhiên và xã hội, thích khám phá những điều mới lạ xung quanh. Rèn cho trẻ một số kỹ năng cơ bản của hoạt động trí tuệ như óc quan sát, so sánh, phân tích, suy luận đơn giản, cung cấp cho trẻ một số kiến thức cần thiết về môi trường xung quanh, làm nền tảng để trẻ tiếp thu tri thức khoa học ở trường phổ thông.
Đối với trẻ mẫu giáo, khả năng chú ý của trẻ phát triển mạnh nhưng chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế. Các hiện tượng bên ngoài có màu sắc, kích thước, hình dạng hấp dẫn đều rất thu hút sự chú ý của trẻ, chính vì vậy, ta nên tập luyện cho trẻ biết tập trung chú ý vào những vấn đề cần nhận thức.
Ví dụ: Trong giờ kể chuyện, cô giáo giao nhiệm vụ sau khi nghe cô kể xong chuyện, các cháu nói được tên các nhân vật, nội dung câu chuyện và kể lại cho các bạn cùng nghe hay trò chơi: “ Con gì biến mất” để giải quyết nhiệm vụ, trẻ phải tập trung chú ý để nhớ xem có con vật gì? Chỉ khi tập trung như vậy thì trẻ mới giải quyết được nhiệm vụ chơi.
Trẻ mẫu giáo lớn rất hay đặt ra các câu hỏi, câu hỏi của trẻ không chỉ đơn giản ở các dạng như “Ai”, “ Cái gì”, “Ở đâu” mà còn hỏi các dạng như: “Tại sao”, “Như thế nào”, “Sao lại thế”. Do đó cô giáo cần tìm hiểu nắm bắt những nhu cầu, khả năng nhận thức của trẻ, từ đó lựa chọn những nội dung, hoạt động, hình thức tổ chức phù hợp, phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo của trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề tết và mùa xuân, hầu hết trẻ đã biết được những món ăn đặc trưng, những hoạt động diễn ra trong ngày tết, tuy nhiên những phong tục trong ngày tết cổ truyền ở Việt Nam còn xa lạ đối với trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần lựa chọn những nội dung phù hợp với khả năng nhận thức và điều kiện thực tế để cung cấp cho trẻ thêm những kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết của trẻ.
 Bên cạnh đó, giáo viên cần tạo cơ hội cho trẻ được tham gia trải nghiệm, khám phá đồng thời sử dụng hệ thống câu hỏi mở nhằm phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức. Giáo viên nên dùng các câu hỏi thuộc nhóm sau: 
+ Câu hỏi kích thích trẻ phỏng đoán, suy đoán diễn biến, kết quả của sự vật, hiện tượng, các câu hỏi ở nhóm này có thể bát đầu bằng các cụm từ như: Do đâu? Làm sao con biết? Điều gì sẽ sảy ra? Con sẽ làm như thế nào? Làm thế nào để biết?
Ví dụ: 
- Điều gì sẽ sảy ra nếu một cây được tưới nước, đặt bên ngoài ánh sáng và một cây không được chăm sóc, đặt ở trong bóng tối?
- Làm thế nào để tạo ra gió?
+ Loại câu hỏi khuyến khích trẻ giải thích ý kiến, đánh giá về sự vật, hiện tượng: Loại câu hỏi này thường bắt đầu bằng tại sao? Theo con thì như thế nào?
Ví dụ: Vì sao khi trời lạnh, mọi người phải mang áo ấm?
Với những câu hỏi mở như vậy, giáo viên sẽ kích thích trẻ suy nghĩ và tìm hiểu về sự vật hiện tượng kỹ hơn, hứng thú hơn, trẻ sẽ được đưa ra nhiều tình huống, câu trả lời với cách lí giải logic, ngộ nghĩnh, đáng yêu mà cũng rất thực tế. Ngoài ra, trong các tiết dạy, giáo viên nên ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động khám phá khoa học, khám phá xã hội sẽ giúp trẻ dễ dàng hình dung, ghi nhớ bài tốt hơn.
Ví dụ: Hoạt động dạy trẻ đếm đến 8, nhận biết số 8. Cô làm slide để kể chuyện anh em nhà thỏ đi hái nấm và trình chiếu trên máy tính. Cô cùng trẻ đếm số nấm với anh em thỏ. Với hoạt động này, trẻ được học toán mà ngỡ như đang nghe truyện cổ tích nên rất hứng thú, tập trung.
 Trong cuộc sống hàng ngày của trẻ, giáo viên có thể giao cho trẻ thực hiện các nhiệm vụ khác nhau đòi hỏi trẻ phải ứng dụng các kiến thức về số lượng, phép đếm như: Lấy số ghế, số bát ăn cơm,.. tương ứng với số lượng các bạn đang ngồi, hay lấy 5 quả bóngNhiều nhiệm vụ đòi hỏi trẻ phải sử dụng các kiến thức về kích thước như lấy số quả bóng to, nhỏ. 
Khả năng định hướng không gian và thời gian là một biểu hiện của sự phát triển trí tuệ, trẻ biết xác định không gian trên, dưới, trước, sau, phải, trái và thời gian như: Sáng, trưa, chiều.
Phát triển tư duy thông qua kể chuyện, đàm thoại, đặt câu hỏi về nội dung; suy luận, phán đoán thông qua câu đố, trò chơi. Qua mỗi giờ hoạt động, cô có thể tìm tòi các câu đố để hỏi trẻ, hay tổ chức các trò chơi học tập để trẻ thi đua nhau, điều này không chỉ giúp trẻ hoạt động trí óc mà còn giúp trẻ tư duy một cách tích cực, phát huy được tính chủ động, hứng thú của trẻ.
Dạy trẻ biết viết tên mình một cách tự nhiên không gò ép, điểm danh bằng bảng tên, nhận ra tên mình trên bài tập cá nhân.
+ Rèn luyện và phát triển ngôn ngữ, dạy trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ:
Qua các giờ họat động, hướng dẫn cho trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ và các hình thức cơ bản của ngôn ngữ. Trẻ có ngôn ngữ mạch lạc phát triển tốt, thì đồng thời các quá trình tâm lý như tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, tri giác,. của trẻ cũng phát triển tốt. Cung cấp cho trẻ các vốn từ cần thiết về thế giới xung quanh, khuyến khích trẻ sử dụng tiếng mẹ đẻ, tập cho trẻ biết diễn đạt một cách rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng, nói lắp, nói lí nhí.
Khi giao tiếp với trẻ, người lớn phải phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước, uốn nắn, nhất là các âm khó như uềnh oàng, khúc khuỷu.. các âm khó phân biệt, dẫn đến nói ngọng như l-n, ch-tr, s-x, p-ph., hướng dẫn trẻ sử dụng đúng ngữ điệu, đúng với hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Cho trẻ làm quen chữ cái thông qua một số trò chơi, các hoạt động như cho trẻ làm quen chữ cái, phát âm các chữ cái, nghe và hiểu nghĩa của từ, thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp. VD: Trò chơi tìm chữ đã học thông qua bài thơ, gắn hột hạt thành chữ, ghép nét chữ
Hình thành một số kĩ năng cho việc đọc - viết như cho trẻ tiếp xúc với chữ viết trong môi trường xung quanh, nhận dạng và phát âm các chữ cái, tô chữ cái, từ, xem và nghe đọc các loại sách, phân biệt phần mở đầu, kết thúc của sách. 
Ví dụ dưới bức tranh trang trí của lớp nhân ngày trung thu, có đề dòng chữ: “ Múa sư tử mừng tết trung thu” hoặc ở các góc chơi có treo biển “ Góc xây dựng”.. vấn đề là không bắt trẻ đọc đúng các dòng chữ đó, mà hằng ngày kích thích trẻ quan sát, tìm các chữ cái, liên hệ với chữ đã học, khi trẻ đã nhớ các chữ cái đó, trẻ có thể đọc một các rõ ràng. Hay chúng ta có thể tạo góc thư viện với những cuốn truyện tranh, sách tranh để trẻ đọc, thậm chí có thể vẽ theo các chữ đó, đặc biệt nên chọn các cuốn sách đen trắng để trẻ tô màu ví dụ như sách: Trò chơi phát triển trí tuệ, bé vẽ, trò chơi các nét chữ..
Cho trẻ làm quen với cách đọc và viết tiếng Việt : Hướng đọc, viết từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới, hướng viết của các nét chữ, “đọc” truyện qua các tranh vẽ, đọc phải diễn cảm, các tranh vẽ có bố cục hợp lý, chữ viết rõ ràng, to, chữ sử dụng trong sách là chữ in thường.
Thường xuyên tạo cơ hội trò chuyện với trẻ, đặt các câu hỏi gợi mở để trẻ tự nói lên suy nghĩ của bản thân, trẻ diễn đạt ý nghĩ của mình bằng lời nói mạch lạc, đồng thời cần rèn cho trẻ thói quen nói năng có văn hóa, tập cho trẻ sự tự tin, không rụt rè, e sợ khi giao tiếp, âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục chửi bậy..
Cần phổ biến cho cha mẹ biết được cách thức dạy con học thêm ở tại gia đình trong khi trò chuyện với trẻ, chơi với trẻ cần diễn đạt, nói năng rõ ràng, mạc lạc.
Giải pháp 3: Duy trì vai trò chủ đạo của hoạt động vui chơi
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp một phải được tiến hành thông qua việc tổ chức hoạt động cho trẻ trước hết là thông qua hoạt động vui chơi, hiện đang giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo. Chính trong sự vui chơi, những phẩm chất tâm lý được hình thành và phát triển thuận lợi như cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ, cần chú ý tổ chức các trò chơi có luật như đomino, chiếc túi kỳ lạ, mèo đuổi chuộtĐộng cơ thúc đẩy trẻ chơi loại trò chơi này không chỉ nằm trong quá trình chơi mà còn di chuyển dần về phía kết quả, điều đó có nghĩa là để đạt được kết quả chơi buộc trẻ phải nắm được luật chơi, cách chơi. Do đó trẻ cần cố gắng nắm vững luật chơi như là tiếp nhận tri thức mới. Chính nhờ đó mà các yếu tố cần thiết của hoạt động học dần dần xuất hiện như lĩnh hội một vấn đề, tự kiểm tra, tự đánh giá. Đồng thời cũng dần dần hình thành phẩm chất đạo đức, tâm lý như cố gắng kiên trì, kỷ luật..
Ngoài ra, còn tiến hành cho trẻ tham gia vào các hoạt động mà trẻ yêu thích như tạo hình, múa hát, đọc thơ, kể chuyện. Những hoạt động này không chỉ làm cho tâm hồn trẻ vui tươi mà còn rèn luyện nhiều kỹ năng sống và học tập như phát triển ngôn ngữ, sự khéo léo của đôi bàn tay.
Giải pháp 4: Tổ chức một số hoạt động có cấu trúc gần giống lớp 1
Ở trường phổ thông, tiết học là hình thức cơ bản, có tổ chức chặt chẽ với nội dung quy định sẵn theo chương trình các môn học. Tuy nhiên, trẻ mẫu giáo chưa thể học được những tiết học được tổ chức như vậy nhưng ta có thể tổ chức tiết học gần giống như vậy với hình thức nhẹ nhàng, linh hoạt không chỉ về nội dung mà cả hình thức, phương pháp và thời gian tiến hành. Đó là hình thức sơ khai của học tập, nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc học của trẻ.
Ví dụ: Thông qua chủ đề trường tiểu học cho trẻ làm quen một số đồ dùng học tập của trường tiểu học. Tham quan trường tiểu học để trẻ hiểu rõ hơn về môi trường học mới và các hình thức hoạt động, vui chơi ở trường tiểu học.
Yêu cầu: Cần phải biết tổ chức các hoạt động cho trẻ, vì nếu không tổ chức hoạt động cho trẻ mà chỉ nói, giảng giải khô khan thì việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một không đạt hiệu quả.
Việc tổ chức hoạt động cho trẻ phải thể hiện rõ quan điểm tích hợp, nghĩa là tổ chức các hoạt động như vui chơi, học tập theo cách lồng ghép, đan cài vào nhau, trong đó vui chơi giữ vai trò chủ đạo chi phối các hoạt động khác cùng tiến hành song song, khiến chúng mang dáng dấp của hoạt động vui chơi, làm tăng hiệu quả giáo dục và tính hấp dẫn của các hoạt động đối với trẻ em. Mặt khác khi tổ chức hoạt động cho trẻ cần đảm bảo yêu cầu mang tính nguyên tắc đó là phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ, biến yêu cầu của người lớn thành yêu cầu của trẻ
Ngoài ra, cần biết kết hợp giữa việc chăm sóc với việc giáo dục trẻ một cách chặt chẽ, điều này có nghĩa là khi chăm sóc sức khỏe cho trẻ cần tranh thủ tình huống để dạy trẻ thêm nhiều điều:
Ví dụ: Khi tổ chức bữa ăn cho trẻ, cô giới thiệu cho trẻ các loại thực phẩm khác nhau, dạy trẻ cách ăn uống, ứng xử văn hóa như mời chào mọi người, ăn gọn gàng
Ngoài ra, tất cả mọi việc chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông đều cần lấy trẻ làm trung tâm. Trước hết, việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một không thể chỉ bằng những lời giảng giải, khuyên răn, phân tích lí lẽ, càng không nên đe dọa mà điều quan trọng là tổ chức các hoạt động cho trẻ tham gia để thực hiện yêu cầu của việc chuẩn bị đến trường. Giáo viên khi xây dựng nội dung giáo dục cần dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ để dẫn dắt đến những hiểu biết mới, mọi sự áp đặt từ ngoài mà không dựa vào vốn kinh nghiệm của trẻ đều thất bại, khiến trẻ hời hợt, thụ động, Do đó cần chú ý đến đặc điểm cá nhân, kích thích sáng kiến ở mỗi trẻ, tránh lối giáo dục đồng loạt như đúc từ một khuôn ra.
Giải pháp 5: Thực hiện tốt công tác phối hợp với các lực lượng xã hội ngoài nhà trường trong việc chuẩn bị cho trẻ vào học phổ thông:
Để chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp một thì công tác phối hợp với các lực lượng xã hội đóng vai trò vô cùng quan trọng. Cha mẹ là những người đặt nền móng đầu tiên trong nhận thức của con trẻ, tác động phần lớn đến nhận thức của con em mình. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, tôi kết hợp cùng ban giám hiệu nhà trường tổ chức họp phụ huynh đầu năm để trao đổi, thống nhất với gia đình về mục tiêu, phương pháp, nội dung chuẩn bị cho trẻ vào lớp một như sau:
Thông qua kế hoạch chăm sóc, giáo dục của nhà trường, của lớp, tuyên truyền phụ huynh kết hợp cùng giáo viên chủ nhiệm để việc cung cấp, rèn luyện kiến thức, 

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN NH 17-18 Nguyễn Thị Hương MN Krông Ana.doc