SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi trường mầm non Krông Ana

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi trường mầm non Krông Ana

Hướng dẫn giáo viên hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ.

Có thể nói rằng đến 5 tuổi trẻ đã tích lũy vốn từ khá phong phú, không những danh từ, mà cả động từ, tính từ, liên từ đủ để giao tiếp với những người xung quanh. Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là việc cung cấp từ mới cho trẻ, mà cần giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết. Vì vậy giáo viên cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau:

Hướng dẫn trẻ quan sát

Giáo viên dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát, các giác quan được huy động (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó )

Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch, thứ tự đi từ sự phân tích mặt này đến sự phân tích mặt khác, vừa đưa ra từ mới, vừa củng cố từ cũ.

 

doc 26 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 926Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi trường mầm non Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đi tham quan đều vận dụng các biện pháp đưa ra để dạy trẻ, nhằm giúp trẻ hoạt động tích cực Trẻ biết phân tích, tổng hợp và khái quát hóa tri thức, đồng thời trẻ biết cảm nhận, rung động trước cái hay, cái đẹp của tác phẩm của đời sống xã hội. 
Từ đó trẻ không những thích đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, thích kể chuyện mà còn biết cách đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, lời nói của trẻ rõ ràng, mạch lạc, nghệ thuật, trẻ tự tin trong giao tiếp. Song nếu giáo viên không chịu khó suy nghĩ, đầu tư xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ, không có sự linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các nội dung biện pháp của đề tài thì việc tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non vẫn chưa đạt hiệu quả.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 
Với nội dung đề tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ thực hiện. Đã có sự lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức phù hợp cho trẻ thực hành trải nghiệm để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra được những ưu điểm, hạn chế của giáo viên hay của trẻ, để tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả hơn.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Từ những khó khăn bất cập về việc cho phát triển ngôn ngữ trẻ 5 - 6 tuổi các hoạt động giáo dục. Muốn thành công và hạn chế những vấn đề yếu kém, và tìm ra được nguyên nhân 
Để khắc phục, cần phải thường xuyên phân tích và tổng kết kinh nghiệm giảng dạy. Cần có sự lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và các hình thức cho trẻ tiếp cận với hoạt động giáo dục. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập thể sư phạm trong quá khứ, để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi trong các hoạt động học tập và vui chơi ở trường mầm non được tốt hơn.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ giúp cho giáo viên có thêm kỹ năng thủ thuật để tổ chức phát triển ngôn ngữ cho trẻ có hiệu quả. Giáo viên biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm và hướng dẫn trẻ thực hành trãi nghiệm. 
Giáo viên nắm được kỷ thuật truyền đạt cho trẻ. Giúp trẻ phát âm rõ ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu ( tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng). Làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ trở nên dễ dàng và sự ghi nhớ giàu cảm xúc để phát triển ngôn ngữ của trẻ trở nên bền vững và chính xác hơn.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp
* Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên rèn luyện khả năng nghe lời nói, khả năng phát âm, rèn luyện ngữ điệu của lời nói cho trẻ.
Phản ứng nghe các âm thanh tự nhiên xuất hiện ở trẻ rất sớm. Nhất là trẻ 5 – 6 tuổi có thể phản ứng được với các mức độ khác nhau của âm thanh lời nói.
Rèn luyện khả năng nghe cho trẻ bao gồm các thành tố: rèn luyện khả năng chú ý nghe, nghe cao độ, nghe từng âm vị, tri giác tốc độ, nhịp độ lời nói. Khả năng nghe tốt sẽ tạo điều kiện cho khả năng nói phát triển.
Đối với trẻ năm tuổi, vốn từ tăng nhanh, trẻ hiểu được nghĩa và dùng từ đã chính xác hơn, đã sử dụng được nhiều mẫu câu đơn giản, đúng ngữ pháp, có thể kể một số chuyện ngắn một cách tuần tự, lôgic, có thể kể chuyện theo tranh Như vậy, điều kiện và khả năng giao tiếp được mở rộng.
Mặt âm thanh của lời nói cũng nhanh chóng phát triển: Trẻ lĩnh hội được và phát âm đúng nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, trẻ bắt đầu biết điều chỉnh tốc độ, cường độ của giọng nói.
Nhiệm vụ của giáo viên là dạy trẻ phát triển khả năng nghe các âm tiết, phát âm đúng tất cả các âm vị tiếng Việt trong các từ, câu một cách rành mạch, rõ ràng. Tiếp tục rèn luyện kỹ năng điều chỉnh giọng nói với cường độ, tốc độ phù hợp với tình huống giao tiếp.
Nếu ở giai đoạn trước sử dụng rộng rãi biện pháp bắt chước thì giai đoạn này giáo viên cần sử dụng biện pháp cho trẻ tập phát âm (sử dụng các bài tập – trò chơi) Tuần tự tập cho trẻ phát âm tất cả các âm vị trong tiếng Việt. Các âm vị khó phát âm như: r, s, x, l, m, n phải chú ý tập cho trẻ thường xuyên liên tục ở mọi lúc mọi nơi.
Phần lớn trẻ tuổi mẫu giáo lớn đã nắm được và phát âm đúng tất cả các âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các thanh điệu, biết phát âm đúng và rõ các từ, biến đổi cường độ, ngữ điệu phù hợp, sử dụng các phương tiện biểu cảm phát âm phù hợp
Có một số trường hợp trẻ yếu không phát âm được hoàn toàn các âm vị, thanh điệu, và phát âm sai một số từ khó, bỏ sót một số nguyên âm. Một số không phân biệt được các âm gần giống nhau: s – x, l – m - n, r – d; chưa làm chủ được cường độ, ngữ điệu.
Giáo viên cần tiếp tục hoàn thiện khả năng nghe lời nói cho trẻ, giáo viên cần phát âm chuẩn xác, rõ ràng cho trẻ bắt chước phát âm theo, củng cố các kĩ năng nói rõ đúng các từ, câu, sử dụng đúng ngữ điệu biểu cảm cho trẻ.
Giáo viên cần sử dụng các bài tập, trò chơi ngôn ngữ, các câu chuyện kể, những bức tranh có chủ đề, những bài tập nói nhanh, câu đố có chứa các câu khác nhau để trẻ luyện nghe nói đồng thời rèn luyện ở trẻ tốc độ nói, phát âm, kĩ năng điều chỉnh giọng nói
Trẻ hát và nói cùng sử dụng một bộ máy phát âm. Vì thế luyện hát cho trẻ đồng thời cũng là luyện âm thanh ngôn ngữ. Dạy trẻ hát tức là rèn luyện cho trẻ khả năng điều khiển bộ máy phát âm của mình.
Các giờ nghe hát luyện tai nghe cho trẻ. Tai nghe âm nhạc khiến cho khả năng nghe tinh tế hơn, nhạy cảm hơn rất nhiều. Chính bởi bản chất của âm thanh âm nhạc. Nghe nhạc là nghe một cách toàn diện cả cao độ, cường độ, nhịp điệu, âm sắc
Các bài hát đòi hỏi trẻ phải làm chủ việc điều khiển phát âm một cách hết sức tinh tế sao cho âm thanh ngôn ngữ vừa đúng, vừa biểu cảm.
Mọi lúc, mọi nơi cô đều có thể luyện phát âm cho trẻ: khi tập thể dục, đi dạo, giờ chơi, trong thời gian đón và trả trẻ Giáo viên phải nắm vững khả năng phát âm của từng cháu để lựa chọn thời điểm thích hợp luyện phát âm cho trẻ. Để làm được điều này, giáo viên cần tiến hành khảo sát khả năng phát âm của trẻ ngay từ đầu năm học để tìm hiểu từng cá nhân trẻ. Từ đó có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp.
Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp được diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong giao tiếp hằng ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè. Trong cuộc sống hằng ngày, cô cần thường xuyên giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ. Khi giao tiếp với trẻ, cô phải phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước, uốn nắn, tập cho trẻ phát âm đúng các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, nhất là những âm khó, những âm khó phân biệt, dẫn đến sự nói ngọng: l – m – n , p – q
Trong giao tiếp hàng ngày, cô không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm đúng, mà cần tập luyện cho trẻ biết sử dụng ngữ điệu đúng, thích hợp với những hoàn cảnh, tâm trạng cụ thể. Dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để biểu thị tình cảm yêu thương của trẻ
Việc dạy trẻ phát âm đúng, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng còn được thực hiện trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập, đặc biệt là trong khi kể chuyện cho trẻ nghe và khi trẻ kể chuyện cho người khác nghe.
Khi kể chuyện, giọng nói và ngữ điệu là phương tiện rất quan trọng. Có thể nói rằng câu chuyện trở nên hấp dẫn nhờ giọng kể hấp dẫn, biết sử dụng ngữ điệu thích hợp để diễn tả tính cách nhân vật. Trẻ tập trung chú ý cao độ vào ngôn ngữ kể chuyện của cô, lắng nghe cách phát âm, ngữ điệu của cô, trên cơ sở đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ điệu thích hợp, và kể lại chuyện theo sự sáng tạo của mình. Khi trẻ kể lại chuyện, cô cần uốn nắn cho trẻ cách phát âm đúng các âm khó, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng với tính cách nhân vật, trong những tình huống cụ thể.
Ví dụ: Một số bài thơ, đồng dao có thể dùng để luyện phát âm các âm vị khó cho trẻ như
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào, 
Leo phải cành cụt leo vào leo ra
Hoặc: Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng
Hay câu đố: Rì rì rà rà
Cõng nhà đi chơi
Là con gì? Con Rùa
* Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn giáo viên hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ.
Có thể nói rằng đến 5 tuổi trẻ đã tích lũy vốn từ khá phong phú, không những danh từ, mà cả động từ, tính từ, liên từ đủ để giao tiếp với những người xung quanh. Việc phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là việc cung cấp từ mới cho trẻ, mà cần giúp trẻ mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết. Vì vậy giáo viên cần thực hiện những biện pháp cơ bản sau:
Hướng dẫn trẻ quan sát
Giáo viên dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát về các mối quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát, các giác quan được huy động (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ mó)
Quá trình hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch, thứ tự đi từ sự phân tích mặt này đến sự phân tích mặt khác, vừa đưa ra từ mới, vừa củng cố từ cũ.
Ví dụ: Quan sát cái xe ô tô tải: Nhìn tổng thể có các bộ phận: Buồn lái, thùng xe, các bánh xe. Đi vào quan sát buồng lái trước (ngoài vào trong) – thùng xe – gầm bao gồm các bánh xe.
Chuẩn bị cho quan sát:
+ Chọn đối tượng phù hợp: Đối tượng cho trẻ quan sát cần phải đẹp, hấp dẫn, lối cuốn chú ý.
+ Chọn những kiến thức cần thiết: Xe tải to, nặng (có cả xe tải nhỏ - taxi tải); để chở đồ đạc, hành lí, hàng hóa...
+ Chọn các từ ngữ phù hợp (những từ mới cần cung cấp, những từ khó cần phải giải nghĩa...).
+ Chọn những bài hát, trò chơi... để tăng sự hấp dẫn của hoạt động.
- Tổ chức quan sát:
+ Bắt đầu chọn một bài thơ, câu đố, một bài hát phù hợp để khởi động.
+ Bắt đầu quan sát, cô cho các cháu tự do trao đổi những nhận xét đầu tiên và lắng nghe, chú ý đến vốn từ của các cháu được sử dụng như thế nào.
+ Cô tiến hành hướng sự quan sát của các cháu vào mục đích đã đặt ra.
Ví dụ: Khi cho trẻ đi tham quan công viên hoặc trường tiểu học.Cô dự kiến mục đích quan sát có thể là khung cảnh: (Cổng, đường đi, cũng có thể là các loại cây cối, các loài hoa).
+ Tri giác của trẻ cần được gắn liền với những từ ngữ (cô đã chuẩn bị trước). Tuy nhiên, cô cũng không hạn chế các từ ngữ do các cháu tự sử dụng.
+ Cô chú ý các cháu quan sát kĩ và được nói nhiều, các từ ngữ mới nêu được nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác các sự vật hiện tượng.
+ Cần lưu ý cung cấp cả những từ thể hiện tính chất của sự vật như: Màu hoa đỏ rực rỡ, cánh hoa dày, lá cây nhỏ, con đường kéo dài...
- Cũng cố kiến thức: bằng các bài thơ, câu đố, bài hát, cần củng cố các kiến thức học được ở tiết học sau hoặc ở các hoạt động khác.
Cho trẻ xem tranh
Trẻ nhỏ rất thích xem tranh; những tranh đẹp có nội dung vừa phát triển vốn từ, vừa giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh, trẻ tiếp thu thêm những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa.
Khi xem tranh, trẻ thường chú ý một cách tản mạn; trẻ tập trung vào những gì mà trẻ thích thú nhất. Nhiệm vụ của cô giáo hướng dẫn sự quan sát của trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn bộ bức tranh để hiểu tranh vẽ ai, cái gì, sau đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, cô lại miêu tả ngắn gọn về toàn bộ bức tranh. Để làm được như vậy cô giáo cần hiểu rõ nội dung bức tranh trước khi hướng dẫn trẻ.
Các biện pháp dùng lời
Trò chuyện với trẻ theo câu hỏi: Đây là biện pháp chính hướng dẫn trẻ làm quen với thiên nhiên. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc mô tả các đối tượng đang quan sát. Qua đó, vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng hơn. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời bằng các từ loại khác nhau: Hỏi về tên gọi, đặc điểm tính chất, công dụng, hoạt động...
Ví dụ: Câu hỏi về tên gọi các loại hoa quả, cây cối, con vật: Cây gì đây? Đây là con gì? Quả gì?
Câu hỏi về công dụng của các đồ vật:...để làm gì?
Câu hỏi về tính chất, đặc điểm của các sự vật, hiện tượng: Như thế nào? Màu gì?...
Khi trò chuyện, cô giáo có thể sử dụng phối hợp một số thủ thuật: nói mẫu, nhắc lại, giảng giải, khen ngợi, cho trẻ sử dụng các thao tác sờ mó, cầm nắm...
- Sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho trẻ khi quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng; điều này làm cho trẻ dần dần hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của từ. 
Lời kể của cô giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ cho các cháu noi theo (giọng nói, ngữ điệu, điệu bộ...). Yêu cầu lời kể của cô phải rõ ràng, đơn giản, dể hiểu đối với trẻ, chủ yếu là mô tả các đặc điểm, tính chất các hành động của đối tượng. Lời kể còn cần ngắn gọn, có lôgic đầy đủ các phần: Mở đầu, mô tả, kết thúc. Mở đầu của lời kể là giới thiệu về đối tượng cho trẻ làm quen và sau đó mô tả các chi tiết, các đặc điểm, tính chất của đối tượng. Kết thúc lời kể là những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. Có thể tiến hành kể trước hoặc sau trò chuyện, nó tùy thuộc vào khả năng nhận thức của trẻ và mức độ phức tạp của chủ đề cho trẻ làm quen.
Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, giáo viên cần chú ý vận dụng các biện pháp phù hợp để giúp trẻ hiểu nghĩa từ, nhất là những từ ngữ nghệ thuật.
Để giải thích cho trẻ hiểu từ trong tác phẩm văn học bằng biện pháp này thì trước hết cần phải chọn từ có nghĩa cụ thể. Có như vậy thì việc sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả.
Ví dụ: Cô định giải thích cả câu từ “phe phẩy” trong câu thơ “phe phẩy quạt nan” của bài thơ “Giữa vòng gió thơm” thì cô phải đọc cho trẻ nghe cả câu một đến hai lần hoặc cả một đoạn thì từ mới không bị tách rời khỏi ngữ cảnh, và như vậy trẻ sẽ cảm nhận tốt hơn. Tiếp theo cô dùng biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích để giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ mà tác giả dùng trong câu, trong bài thơ hay câu chuyện ấy.
Sử dụng các trò chơi học tập
Có thể sử dụng một số trò chơi học tập để phát triển vốn từ:
Trò chơi: Cái gì đã thay đổi
Trước mặt các cháu, cô bày một số đồ chơi. Yêu cầu các cháu nhắm mắt lại, cô thay đổi vị trí của đồ chơi hoặc cất đi và bổ sung đồ chơi khác vào vị trí đó. Yêu cầu trẻ mở mắt, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi. (ví dụ: Trong vườn bách thú có thỏ, khỉ, hươu cùng chơi với nhau – Có một số cây cối, đu quay, cầu trượt... Cô thay đổi vị trí của chúng phải, trái, trước, sau, bên cạnh... Yêu cầu trẻ nhận xét).
* Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
Ngôn ngữ mạch lạc là hình thức giao tiếp cơ bản của trẻ. Hình thức giao tiếp này đã được hình thành ở cuối tuổi mẫu giáo. Trong quá trình giao tiếp, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ giải thích, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc để diễn đạt, nhấn mạnh ý muốn, sự hiểu biết của mình để người khác có thể hiểu được trẻ muốn gì, nói cái gì?
Trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động và giao tiếp cô cần tạo điều kiện để trẻ nói rõ ràng, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí, nêu bật các ý cần nhấn mạnh để người khác hiểu một cách dễ dàng.
Ví dụ: Cần tập cho trẻ mô tả một công viên (mà trẻ đã có dịp tham quan hoặc quan sát tranh, mô hình)
Đến 5 tuổi trẻ có khả năng đánh giá khả năng ngôn ngữ của bạn, của mình, do vậy, bên cạnh việc rèn cho trẻ phát âm đúng, nói năng rõ ràng, mạch lạc, cô cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá về nhau. 
Ví dụ: Một trẻ đóng vai gấu được các bạn nhận xét: “ Gấu gì mà nói năng dịu dàng, yếu đuối thế”, “Bác sĩ, cô giáo gì mà ăn nói cộc lốc như vậy”, khi trẻ nhận xét các bạn đóng vai bác sĩ, cô giáo.
Sự kiên trì của giáo viên là rất cần thiết. Để tập cho trẻ nói năng mạch lạc, theo một trình tự loogic, dễ hiểu, cô giáo phải biết lắng nghe, tập cho trẻ sắp xếp lại (nói lại) những điều cần nói theo một mạch lôgic. Thực ra qua những câu nói lộn xộn của trẻ, cô có thể giải được ý muốn của trẻ, song không vì thế mà bỏ qua việc yêu cầu trẻ sắp xếp các câu nói cho hợp lí.
Ngôn ngữ mạch lạc còn được thể hiện ở chỗ: trẻ nói năng có văn hóa (nói thoải mái, vừa đủ nghe, không hét, không quát, không nói tục) 
Xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, nhất là trẻ 5 tuổi. Cô cần rèn luyện cho trẻ thói quen nói năng có văn hóa, tập cho trẻ sự tự tin trong giao tiếp, không rụt rè, e sợ, tôn trọng, lễ phép với người lớn
Bên cạnh đó cô cần sửa các tật ngôn ngữ mà trẻ thường gặp nhất đó là tật nói ngọng. Nói ngọng do nhiều nguyên nhân. Có thể nói ngọng do nguyên nhân sinh học: bộ máy phát âm của trẻ kém phát triển, có thể do tác động của những yếu tố khách quan, tập quán địa phương. (Trong một môi trường mà từ già đến trẻ đều nói ngọng thì tất yếu trẻ sẽ nói ngọng)
Những tật nói ngọng này có thể sửa được khi người lớn (bố mẹ, ông bà, cô giáo) phát âm chuẩn và có ý thức uốn nắn cho trẻ. Nếu người lớn luôn phát âm chuẩn, thì đến một lúc nào đó bộ máy phát âm của trẻ phát triển thì trẻ sẽ khắc phục được tật nói giọng của mình.
Tật thứ hai thường gặp trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là tật nói lắp (nói lắp bẩm sinh và nói lắp do tác động của những điều kiện bên ngoài). Trong quá trình giao tiếp ta thường gặp một số trẻ do rụt rè, e ngại, do dự mà nói mãi mới ra lời, hoặc quá vội vàng, lắp bắp khi nói năng tất cả những hiện tượng này sẽ dẫn đến tật nói lắp của trẻ. 
Vấn đề đặt ra là giáo viên cần tập cho trẻ tự tin, bình tĩnh trong giao tiếp, uốn nắn khi trẻ nói lắp, giúp trẻ hiểu được nói lắp là xấu. Đồng thời bản thân giáo viên cũng không được nói lắp (giả tập theo trẻ) khi giao tiếp với trẻ.
* Biện pháp thứ tư: Hướng dẫn giáo viên phát triển ngôn ngữ (lời nói) nghệ thuật cho trẻ qua thơ và truyện.
Văn học là một phương tiện có hiệu quả mạnh mẽ, đối với việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ và điều quan trọng là nó có ảnh hưởng to lớn tới sự phát phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ. Giáo viên là người đem đến cho trẻ tác phẩm văn học như một tác phẩm nghệ thuật, mở ra ý nghĩa của nó, truyền cho trẻ những thái độ, cảm xúc.
Đối với các nhân vật của tác phẩm, đối với những xúc cảm trữ tình của tác giả có nghĩa là truyền đạt bằng ngữ điệu, thái độ của mình đối với các nhân vật. Để làm được điều đó, trước khi cho trẻ làm quen , hiểu và rung động với tác phẩm. 
Giáo viên cần phải biết phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, và tất nhiên, giáo viên phải nắm được kỹ thuật đọc và kể, phát âm rõ ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm ngữ điệu (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ giọng...).
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi có khả năng suy nghĩ sâu hơn về nội dung các tác phẩm văn học và hiểu một số đặc trưng của hình thúc thể hiện nội dung, có nghĩa là trẻ có thể phân biệt được các thể loại văn học và đặc trưng của từng thể loại. Trẻ dễ dàng phân biệt văn xuôi với thơ, chỉ ra rằng thơ có sự nhịp nhàng, có thể phân biệt dựa vào tính nhịp điệu và cấu tạo vần, sự ngân vang của các câu thơ. 
Giáo viên cần phải hướng sự chú ý của trẻ vào các đặc trưng thể loại, khi đó trẻ sẽ nhận thức sâu sắc hơn những giá trị của các tác phẩm văn học.
Dạy trẻ cảm nhận nhịp điệu, âm điệu của thơ, ca dao, đồng dao; Dạy trẻ cách đánh giá các nhân vật trong truyện; Dạy trẻ kể lại truyện theo từng đoạn, theo tranh; dạy trẻ tập đóng kịch. Các biện pháp chung là; kể, đọc diễn cảm các tác phẩm; đàm thoại với trẻ về cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm và sau đó có thể đọc, kể lại một cách diễn cảm.
Như vậy, mỗi một giờ dạy thơ đặt ra cho cô giáo những nhiệm vụ khác nhau: Cô phải đọc bài thơ một cách diễn cảm, đặt ra các câu hỏi đúng, hướng chú ý của trẻ vào nội dung và các phương tiện biểu cảm của tác phẩm: dạy trẻ đọc diễn cảm (chọn ngữ điệu phù hợp, ngắt nghỉ đúng...) Việc đọc thơ của trẻ phải chỉ ra rằng, trẻ không chỉ hiểu bài thơ nói gì mà còn phải biết mang đến cho người nghe hiểu thái độ của mình với tác phẩm.
Cần đưa vào tiết học phần nhắc lại các bài thơ đã học để các từ ngữ có hình ảnh cũng cố một cách vững chắc các

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Lê Thị Hường.doc