Nội dung thứ 2: Bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học;
Trong thực tế cho thấy, hiện nay, rất nhiều giáo viên tiểu học đã và đang sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong những giờ dạy cụ thể. Tuy nhiên, rất ít giáo viên hiểu được đặc trưng và hướng tiếp cận của các phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên đang sử dụng trong những giờ dạy nên việc sử dụng phương pháp dạy học còn nhiều lúng túng, không hiệu quả vì vậy không phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học.
Việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học cần tập trung vào những nội dụng cụ thể như sau:
+ Các phương pháp dạy học tích cực cụ thể:
Xuất phát từ hoạt động dạy học cụ thể của giáo viên trong nhà trường. Trong đề tài nghiên cứu này, tôi chỉ xây dựng giới hạn bồi dưỡng cho giáo viên trong năm học 2019-2020 với 3 phương pháp:
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề;
- Phương pháp hoạt động nhóm;
- Phương pháp đóng vai.
ọc đồng loại với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hóa ít chú ý đến năng lực học tập của từng đối tượng học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học sẽ chú trọng cải tiến thực tiện này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng học sinh trong giờ học. Vì vậy, hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với giáo viên thường được thể hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay nghề sư phạm của giáo viên vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các vấn đề giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng phương pháp dạy học, thiết bị dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng học sinh. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học. Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ học với các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau: a. Các bước thiết kế một giáo án - Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó giúp giáo viên xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu, vận dụng những kiến thức, kĩ năng nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo dục cho HS những bài học gì). - Bước 2: Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những kiến thức, kĩ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở học sinh; xác định trình tự logic của bài học. Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong sách giáo khoa còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác. Kinh nghiệm của các giáo viên lâu năm cho thấy: trước hết nên đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong sách giáo khoa để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Mỗi giáo viên không chỉ có kỹ năng tìm đúng, tìm trúng tư liệu cần đọc mà cần có kỹ năng định hướng cách chọn, đọc tư liệu cho học sinh. Giáo viên nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên môn và giáo viên tin cậy. Việc đọc sách giao khoa, tài liệu phục vụ cho việc soạn giáo án có thể chia thành 3 cấp độ sau: đọc lướt để tìm nội dung chính xác định những kiến thức, kĩ năng cơ bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; đọc để tìm những thông tin quan tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch kiến thức, kĩ năng và dụng ý của tác giả; đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng mạch kiến thức, kĩ năng. Thực ra khâu khó nhất trong đọc sách giao khoa và các tư liệu đúc kết được phạm vi, mức độ kiến thức, kỹ năng của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của học sinh và điều kiện trong dạy học thực tế, nhiều khi chúng ta thường chưa đi tới hoặc đi qáu nhưng xyêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng. Nếu nắm vững nội dung bài học, giáo viên sẽ phác họa những nội dung và trình tự của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch kiến thức, kỹ năng của sách giáo khoa, xây dựng một hệ thống các câu hỏi, bài tập giúp học sinh nhận thức, khám phá, vận dụng các kiến thức, kỹ năng trong bài một cách hợp lý. - Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của học sinh, gồm: xác định những kiến thức, kỹ năng mà học sinh đã có và cần có; dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS để lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù hợp. Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, giáo viên phải lường trước các tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của học sinh. Nói cách khác, tính khả thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của HS, được xuất phát từ: những kiến thức, kỹ năng mà học sinh đã có một cách chắc chắn, vững bền; những kiến thức, kỹ năng mà HS chưa có hoặc có thể quên; những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình học tập của học. Bước này chỉ là sự dự kiến; nhưng trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, giáo viên đã lúng túng trước những ý kiến không đồng nhất của học sinh với những biểu hiện rất đa dạng. Do vậy, dù mất công nhưng mỗi giáo viên nên dành thời gian để xem qua bài soạn của học sinh trước giờ học kết hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn kiến thức, kỹ năng đã có của học sinh. Bước 4: Lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học , giáo viên phải quan tâm tới việc pháp huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quan và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh. - Bước 5: Thiết kế giáo án. Đây là bước người giáo viên bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Trong thực tế, có nhiều giáo viên khi soạn bài thường chỉ đọc sách giáo khoa, sách giáo viên và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có giáo viên chỉ căn cứ vào những gợi ý của sách giáo viên để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của học sinh, nghiên cứu nội dung dạy học, lựa chọn các phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như vậy không thể giúp giáo viên có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể. b. Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau: - Mục tiêu bài học: + Nêu rõ yêu cầu học sinh cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ; + Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được. - Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học: + Giáo viên chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector...) và tài liệu dạy học cần thiết; + Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết). - Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy - học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ: + Tên hoạt động; + Mục tiêu của hoạt động; + Cách tiến hành hoạt động; + Thời lượng để thực hiện hoạt động; + Kết luận của giáo viên về: những kiến thức, kỹ năng, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp; ... Hướng dẫn các hoạt động nối tiếp; xác định những việc học sinh cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới. Nội dung thứ 2: Bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học; Trong thực tế cho thấy, hiện nay, rất nhiều giáo viên tiểu học đã và đang sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong những giờ dạy cụ thể. Tuy nhiên, rất ít giáo viên hiểu được đặc trưng và hướng tiếp cận của các phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên đang sử dụng trong những giờ dạy nên việc sử dụng phương pháp dạy học còn nhiều lúng túng, không hiệu quả vì vậy không phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học. Việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học cần tập trung vào những nội dụng cụ thể như sau: + Các phương pháp dạy học tích cực cụ thể: Xuất phát từ hoạt động dạy học cụ thể của giáo viên trong nhà trường. Trong đề tài nghiên cứu này, tôi chỉ xây dựng giới hạn bồi dưỡng cho giáo viên trong năm học 2019-2020 với 3 phương pháp: - Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề; - Phương pháp hoạt động nhóm; - Phương pháp đóng vai. * Về lý thuyết: - Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề Trang bị cho giáo viên những đặc trưng và hướng tiếp cận phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Cụ thể: Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau: - Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức: + Tạo tình huống có vấn đề; + Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh; + Phát hiện vấn đề cần giải quyết. - Giải quyết vấn đề đặt ra: + Đề xuất cách giải quyết; + Lập kế hoạch giải quyết; + Thực hiện kế hoạch giải quyết. - Kết luận: + Thảo luận kết quả và đánh giá; + Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra; + Phát biểu kết luận; + Đề xuất vấn đề mới. Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề: Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc. Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. Phương pháp hoạt động nhóm Trang bị cho giáo viên những đặc trưng và hướng tiếp cận phương pháp hoạt động nhóm. Cụ thể: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp. * Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành: Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ - Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm. Làm việc theo nhóm: - Phân công trong nhóm. - Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm - Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm việc theo nhóm Tổng kết trước lớp: - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả. - Thảo luận chung. - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Thành công của bài học nước phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn làm gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên, phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi không gian có phạm vi nhỏ của lớp học, bởi thời kì hạn định của tiết học, thành thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng, trong hoạt động nhóm, tư duy hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương pháp này là đoàn luyện năng lực hiệp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động. Cần tránh xu hướng hình thức và xơ cua lạm dụng, ý là tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của canh tân PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới. Phương pháp đóng vai. Trang bị cho giáo viên những đặc trưng và hướng tiếp cận phương pháp đóng vai. Cụ thể: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau: - Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh. - Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực. - Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. * Cách tiến hành có thể như sau: - Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai. - Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. - Các nhóm lên đóng vai. - Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai. - Vì sao em lại ứng xử như vậy? - Cảm xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử? - Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao? - Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống. Những điều cần lưu ý khi sử dụng: - Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai; - Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai; - Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia. * Về thực hành: Tổ chức dạy chuyên đề Chỉ đạo tổ chức các tiết dạy chuyên đề áp dụng các phương pháp dạy học tích cực (chú trọng các phương pháp đề tài nghiên cứu). Gồm các bước sau: Thứ nhất: Giao nhiệm vụ cho giáo viên dạy chuyên đề; Thứ hai: Hỗ trợ giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học (giáo án) chú trọng đến khâu chuẩn bị các phương pháp dạy học mà đề tài nghiên cứu phù hợp với từng nội dung bài dạy; Thứ ba: Tổ chức cho tổ, nhóm chuyên môn tháo luận, góp ý kế hoạch dạy học (giáo án); Thứ tư: Tổ chức dạy chuyên đề; Thứ năm: Tổ chức đóng góp ý kiến cho tiết dạy (đặc biệt chú ý đến việc giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học mà đề tài nghiên cứu). Tổ chức dự giờ thăm lớp Tổ chức các hoạt động dự giờ, thăm lớp để kiểm tra việc sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực của giáo viên, từ đó có những biện pháp tư vấn, hỗ trợ thêm cho giáo viên trong hoạt động dạy học sử dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học. Nội dụng thứ 3: Bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương pháp đánh giá học sinh theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh đối với giáo viên rất quan trọng. Vì vậy, giáo viên cần phải hiểu rõ về về mục đích và nguyên tắc đánh giá học sinh (quy định tại các Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) để khi thực hiện việc kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học. Về mục đích: 1. Giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. 2. Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. 3. Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (chung là cha mẹ học sinh) tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình; tích cực hợp tác với nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh. 4. Giúp cán bộ quản lí giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục. Về nguyên tắc: 1. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. 2. Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học. 3. Đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, đánh giá định kì bằng điểm số kết hợp với nhận xét; kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất. 4. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. Các hình thức tổ chức Bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương pháp đánh giá học sinh theo hướng phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học. Vào đầu năm học, nhà trường chỉ đạo cho chuyên môn, tổ chuyên môn xây dựng và triển khai chuyên đề sử dụng các phương pháp đánh giá học sinh theo các Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào + Một số phương pháp đánh giá thường được sử dụng trong
Tài liệu đính kèm: