PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay các phần mềm ứng dụng công nghệ hỗ trợ dạy học xuất hiện ngày
càng nhiều với các tính năng được cải tiến, đem lại hiệu quả cao, dễ sử dụng đã hỗ
trợ không nhỏ cho việc dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, mở ra nhiều
cơ hội cho giáo viên và học sinh trong việc đổi mới phương pháp và đạt mục tiêu
dạy học một cách tối ưu. Do đó, ứng dụng CNTT là một năng lực cốt lõi mà HS
cần đạt, là năng lực chìa khóa, năng lực công cụ để HS phát triển các năng lực
khác cũng như đi vào cuộc sống một cách chủ động, tự tin. Từ việc biết cách làm
việc với các ứng dụng CNTT, học sinh sẽ được phát triển và tự phát triển nhiều
năng lực như năng lực giao tiếp; năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo, Đó cũng là những năng lực chung và năng lực đặc thù của môn Toán
mà giáo viên cần hình thành cho học sinh, nhằm đáp ứng được yêu cầu đặt ra của
chương trình giáo dục phổ thông mới.
c thức nền về các khối đa diện, sự hình thành mặt tròn xoay, khái niệm tính chất của các hình đó, các công thức tính diện tích thể tích và một số yếu tố khác. Tìm hiểu được một số mô hình thực tế và sử dụng các ứng dụng AR để mô phỏng kiến thức, Lập được bản đồ tư duy AR cho kiến thức về mặt tròn xoay. Từ việc nghiên cứu kiến thức để thiết kế bản vẽ sản phẩm hay lên ý tưởng sản phẩm cho cả nhóm. Thông qua cách này, HS đã bước đầu tự hình thành cho mình năng lực tự học, tự nghiên cứu và năng lực công nghệ thông tin của các em sẽ tiến bộ qua từng bài học. Ngoài ra việc thực hiện nhiệm vụ theo nhóm các em còn phát triển thêm được năng lực giao tiếp và hợp tác.Để thực hiện được nhiệm vụ này học sinh ngoài phát triển những năng lực chung như trên đòi hỏi học sinh phát triên các năng lực Toán học sau: Năng lực tư duy và lập luận toán học thể hiện qua việc: – Thực hiện được tương đối thành thạo các thao tác tư duy, đặc biệt phát hiện được sự tương đồng và khác biệt trong những tình huống tương đối phức tạp và lí giải được kết quả của việc quan sát. – Sử dụng được các phương pháp lập luận, quy nạp và suy diễn để nhìn ra những cách thức khác nhau trong việc giải quyết vấn đề. – Nêu và trả lời được câu hỏi khi lập luận, giải quyết vấn đề. Giải thích, chứng minh, điều chỉnh được giải pháp thực hiện về phương diện toán học. Năng lực mô hình hoá toán học thể hiện qua việc: – Thiết lập được mô hình toán học (gồm công thức, phương trình, sơ đồ, hình vẽ, bảng biểu, đồ thị,...) để mô tả tình huống đặt ra trong một số bài toán thực tiễn. – Giải quyết được những vấn đề toán học trong mô hình được thiết lập. – Lí giải được tính đúng đắn của lời giải (những kết luận thu được từ các tính toán là có ý nghĩa, phù hợp với thực tiễn hay không). Đặc biệt, nhận biết 29 được cách đơn giản hoá, cách điều chỉnh những yêu cầu thực tiễn (xấp xỉ, bổ sung thêm giả thiết, tổng quát hoá,...) để đưa đến những bài toán giải được Năng lực giao tiếp toán học thể hiện qua việc – Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép (tóm tắt) được tương đối thành thạo các thông tin toán học cơ bản, trọng tâm trong bài học nói hoặc viết. Từ đó phân tích, lựa chọn, trích xuất được các thông tin toán học cần thiết từ bài học nói hoặc viết. – Lí giải được (một cách hợp lí) việc trình bày, diễn đạt, thảo luận, tranh luận các nội dung, ý tưởng, giải pháp toán học trong sự tương tác với người khác. – Sử dụng được một cách hợp lí ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường để biểu đạt cách suy nghĩ, lập luận, chứng minh các khẳng định toán học. – Thể hiện được sự tự tin khi trình bày, diễn đạt, thảo luận, tranh luận, giải thích các nội dung toán học trong nhiều tình huống không quá phức tạp. HOẠT ĐỘNG 3: LỰA CHỌN GIẢI PHÁP Trong hoạt động này, học sinh được tổ chức để trình bày, giải thích và bảo vệ bản thiết kế kèm theo thuyết minh (sử dụng kiến thức mới học và kiến thức đã có); đó là sự thể hiện cụ thể của giải pháp giải quyết vấn đề. Dưới sự trao đổi, góp ý của các bạn và giáo viên, học sinh tiếp tục hoàn thiện (có thể phải thay đổi để bảo đảm khả thi) bản thiết kế trước khi tiến hành chế tạo, thử nghiệm. – Mục đích: Lựa chọn giải pháp/bản thiết kế. – Nội dung: Trình bày, giải thích, bảo vệ giải pháp/thiết kế để lựa chọn và hoàn thiện. – Dự kiến sản phẩm hoạt động của học sinh: Giải pháp/bản thiết kế được lựa chọn/hoàn thiện. – Cách thức tổ chức hoạt động: Giáo viên giao nhiệm vụ (Nêu rõ yêu cầu HS trình bày, báo cáo, giải thích, bảo vệ giải pháp/thiết kế); Học sinh báo cáo, thảo luận; Giáo viên điều hành, nhận xét, đánh giá + hỗ trợ HS lựa chọn giải pháp/thiết kế mẫu thử nghiệm. Ví dụ: Ở phần này tôi giao nhiệm vụ thiết kế bản vẽ của nội dung chủ đề bằng bản vẽ tay và mô hình thực tế ảo thông qua các phần mềm GEOGEBRA 3D, hay Geo AR. Để thực hiện được nhiệm vụ này rõ ràng hóc sinh cần có Năng lực giải quyết vấn đề toán học thể hiện qua việc: – Xác định được tình huống có vấn đề; thu thập, sắp xếp, giải thích và đánh giá được độ tin cậy của thông tin; chia sẻ sự am hiểu vấn đề với người khác. – Lựa chọn và thiết lập được cách thức, quy trình giải quyết vấn đề. – Thực hiện và trình bày được giải pháp giải quyếtvấn đề. 30 – Đánh giá được giải pháp đã thực hiện; phản ánh được giá trị của giải pháp; khái quát hoá được cho vấn đề tương tự. - Học sinh cần có năng lực mô hình hoán Toán học thì mới chuyển từ bản vẽ thiết kê tay sang mô hình thực tế ảo HOẠT ĐỘNG 4: CHẾ TẠO MẪU, THỬ NGHIỆM VÀ ĐÁNH GIÁ Trong hoạt động này, học sinh tiến hành chế tạo mẫu theo bản thiết kế đã hoàn thiện sau bước 3; trong quá trình chế tạo đồng thời phải tiến hành thử nghiệm và đánh giá. Trong quá trình này, học sinh cũng có thể phải điều chỉnh thiết kế ban đầu để bảo đảm mẫu chế tạo là khả thi. – Mục đích: Chế tạo và thử nghiệm mẫu thiết kế. – Nội dung: Lựa chọn dụng cụ/thiết bị thí nghiệm; chế tạo mẫu theo thiết kế; thử nghiệm và điều chỉnh. – Dự kiến sản phẩm hoạt động của học sinh: Dụng cụ/thiết bị/mô hình/đồ vậtđã chế tạo và thử nghiệm, đánh giá. – Cách thức tổ chức hoạt động: Giáo viên giao nhiệm vụ (lựa chọn dụng cụ/thiết bị thí nghiệm để chế tạp, lắp ráp); Học sinh thực hành chế tạo, lắp ráp và thử nghiệm; Phần này nhiệm vụ chính là của học sinh giáo viên hỗ trợ học sinh trong quá trình thực hiện. Qua hoạt đông này học sinh phải có năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán ứng dụng vào chế tạo sản phẩm STEM thể hiện qua việc: – Nhận biết được tác dụng, quy cách sử dụng, cách thức bảo quản các công cụ, phương tiện học toán (bảng tổng kết về các dạng hàm số, mô hình góc và cung lượng giác, mô hình các hình khối, bộ dụng cụ tạo mặt tròn xoay,...). – Sử dụng được máy tính cầm tay, phần mềm, phương tiện công nghệ, nguồn tài nguyên trên mạng Internet để giải quyết một số vấn đề toán học. – Đánh giá được cách thức sử dụng các công cụ, phương tiện học toán trong tìm tòi, khám phá và giải quyết vấn đề toán học. HOẠT ĐỘNG 5: CHIA SẺ, THẢO LUẬN, ĐIỀU CHỈNH Trong hoạt động này, học sinh được tổ chức để trình bày sản phẩm học tập đã hoàn thành; trao đổi, thảo luận, đánh giá để tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện. – Mục đích: Trình bày, chia sẻ, đánh giá sản phẩm nghiên cứu. – Nội dung: Trình bày và thảo luận. – Dự kiến sản phẩm hoạt động của học sinh: Dụng cụ/thiết bị/mô hình/đồ vật...Đã chế tạo được + Bài trình bày báo cáo. – Cách thức tổ chức hoạt động: Giáo viên giao nhiệm vụ (mô tả rõ yêu cầu và sản phẩm trình bày); Học sinh báo cáo, thảo luận (bài báo cáo, trình chiếu, video, dung cụ/thiết bị/mô hình/đồ vật đã chế tạo) theo các hình thức phù hợp (trưng bày, triển lãm, sân khấu hóa); Giáo viên đánh giá, kết luận, cho điểm và định hướng tiếp tục hoàn thiện. 31 Ví dụ: Khi báo cáo sản phẩm logo Elip, hộp quà hình elip, đa điện, hình tròn xoay tôi yêu cầu học sinh thực hiện báo cáo bằng các hình thức sử dụng sản phẩm và mô phỏng thông qua các ứng dụng AR với những tiêu chí cụ thể đã có ( Phần phụ lục của giáo án). Chẳng hạn, yêu cầu học sinh quay video sản phẩm và dùng phần mềm HP REVEAL hay GEOGEBRA 3D để minh họa cho bài báo cáo thêm sinh động. Các mô hình động minh họa bằng các file ảnh động gif có thể download về và chuyển đổi thành Video để sử dùng cho phần phủ mô tả từ trang https://www.mathwarehouse.com/geometry/ Rõ ràng hoạt động này tạo thế mạnh cho học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp và hợp tác. Đựợc thể hiện mình, được phản biện và rút kinh nghiệm chế tạo thiết kế sản phẩm mộ cách chân thành nhất. 32 2.3. Phát triển năng lực cho HS trong dạy học Toán học theo định hướng STEM thông qua việc ứng dụng công nghệ AR phối kết hợp với các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt trong giờ dạy học Vận dụng ứng dụng AR chỉ là một phương tiện trong vô số những phương tiện và cách thức dạy học Toán học giúp HS phát triển năng lực. Vì vậy, đó không thể là phương tiện được sử dụng độc lập khi dạy học. Bởi nó chỉ là công cụ hỗ trợ cho người GV và HS cho việc học tập được dễ dàng hơn. Vì vậy, ngoài việc sử dụng AR, trong quá trình dạy học Toán học, học sinh THPT còn được hình thành và phát triển năng lực thông qua việc GV biết cách vận dụng linh hoạt các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với năng lực, sở thích của các em. AR có thể được sử dụng kết hợp với các hình thức học tập như tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học, dạy học thuyết trình, phương pháp trò chơi... Một giờ Toán học thành công chính là hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp sáng tạo các phương pháp, phương tiện dạy học. 2.3.1. Kết hợp vận dụng công nghệ AR hỗ trợ cho việc thảo luận nhóm (dạy học hợp tác) trong dạy học Toán. Toán học là phân môn có nhiều vấn đề để thảo luận nhóm khi giảng dạy. Thông qua việc học sinh đại diện nhóm trình bày quan điểm cá nhân để rèn năng lực cho các em, nhất Năng lực giao tiếp toán học thể hiện qua việc – Nghe hiểu, đọc hiểu và ghi chép (tóm tắt) được tương đối thành thạo các thông tin toán học cơ bản, trọng tâm trong bài học nói hoặc viết. Từ đó phân tích, lựa chọn, trích xuất được các thông tin toán học cần thiết từ bài học nói hoặc viết. – Lí giải được (một cách hợp lí) việc trình bày, diễn đạt, thảo luận, tranh luận các nội dung, ý tưởng, giải pháp toán học trong sự tương tác với người khác. – Sử dụng được một cách hợp lí ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường để biểu đạt cách suy nghĩ, lập luận, chứng minh các khẳng định toán học. – Thể hiện được sự tự tin khi trình bày, diễn đạt, thảo luận, tranh luận, giải thích các nội dung toán học trong nhiều tình huống không quá phức tạp Biện pháp này khá thích hợp với những kiểu bài thực hành làm bài tập, các bài dạy theo định hướng STEM khi báo cáo bản thiết kế hay trình bày sản phẩm STEM. Không một nhà giáo dục nào phủ nhận vai trò, tác dụng của phương pháp này trong dạy học. Đây là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của HS. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề khó khăn. 33 Hình ảnh thảo luận mô hình AR Kinh nghiệm bản thân cho thấy nên chia nhóm trong đó có cả HS giỏi, khá, trung bình, yếu là tốt nhất. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các nhóm phải bằng nhau để đảm bảo công bằng. Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất. Quy trình giảng dạy với thời gian một tiết (45 phút), GV tiến hành tuần tự các bước lên lớp theo quy định chung. GV nêu chủ đề cần thảo luận, chia nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học, giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. Các nhóm tiến hành thảo luận. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung mà HS trình bày còn thiếu cho hoàn thiện. GV đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau khi thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung chính của bài học vào vở. Qua việc dự giờ đồng nghiệp và giảng dạy, bản thân tôi thấy rằng: Thông thường, sau khi thảo luận xong, các nhóm thường cử một người thay mặt nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những HS khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. Kết quả thảo luận được trình bày chủ yếu bằng hình thức viết lên giấy khổ lớn dán lên bảng. Đến đây, HS coi như “xong nhiệm vụ”. Đến phần giáo viên chữa bài của HS, vì tâm lý sợ HS trình bày rườm rà sẽ “cháy” giáo án, nên GV thường chữa bài của các em thật nhanh. GV chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ cách các em thức trình bày vấn đề trên giấy, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và sự thiếu hợp lý của bố cục trình bày. Thậm chí, học sinh sẽ không có cơ hội được trình bày quan điểm cá nhân và như vậy sẽ không rèn được khả năng nói của mình. Để khắc phục tình trạng này, trong phần trình bày của HS, tôi cũng đã quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ (nếu có) thông qua phiếu đánh giá, và cho điểm cả cách thuyết trình của HS. GV cần tạo điều kiện cho tất cả thành viên trong nhóm được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè e thẹn hay ngại trước đám đông, GV có thể yêu cầu HS đó đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình. Thậm chí, qua sự quan sát của mình, nếu thấy học sinh nào chưa thực 34 sự tập trung, giáo viên có thể yêu cầu chính em đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Về phần trình bày kết quả thảo luận. Tôi thường khuyến khích các em trình bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời; đóng vai; viết hoặc vẽ lên giấy khổ lớn; đặc biệt cố gắng tận dụng lợi thế của các phần mềm ứng dụng AR để mô tả, một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một ý tưởng Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa chữa cho các em để các em hoàn thiện được khả năng nói – và trình diễn của mình. Một kinh nghiệm nữa để sử dụng phương pháp này hiệu quả nhằm rèn kỹ năng giao tiếp cho HS là trong 45 phút của một tiết học, nếu thảo luận với thời gian quá ngắn, sử dụng phương pháp này sẽ không có hy vọng gì trong việc rèn được kĩ năng nói – phản biện cho học sinh. Vì vậy, GV có thể chuyển tải nhiều nội dung khác nhau của bài học bằng nhiều hình thức học tập: Học ở lớp, ở nhà tự học, tự nghiên cứu... Nên dành một thời giờ thích đáng cho việc thảo luận nhóm và để học sinh có cơ hội trình bày quan điểm cá nhân. Để giúp HS mài sắc năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ, trong khi sử dụng phương pháp này, GV cũng có thể sử dụng thêm phương pháp phản ứng nhanh và xử lý tình huống. Đừng để phương pháp thảo luận chỉ còn là hình thức vì không đủ thời gian cần thiết để hoàn thành như vậy sự thay đổi về mặt phương pháp chỉ là “cái bình mới cho rượu cũ” là việc thuyết giảng của GV. Ví dụ: Khi dạy học bài chủ đề STEM có nhiều hoạt động luôn dành cho các nhóm thảo luận nhóm đó là: Hoạt động Nghiên cứu kiến thức nền và chuẩn bị bản thiết kế sản phẩm để báo cáo, Hoạt động: Báo cáo phương án thiết kế, Hoạt động : Triển lãm, giới thiệu sản phẩm; Với chủ đề STEM chế tạo logo và hộp quà hình Elip khi thực hiện vấn đề thiết kế logo hình Elip và hộp quà giáo viên cho các nhóm các nhóm sẽ tiến hành thảo luận (GV có thể gợi ý các khía cạnh của vấn đề học HS suy nghĩ: Thảo luận về logo hình dạng Elip thế nào? Kích cỡ? Vật liệu, phân công nhiệm vụ thế nào?) trả lời câu hỏi, để giải quyết vấn đề mà GV đưa ra. Thời gian thảo luận nhóm là 10 phút, thời gian báo cáo trước lớp cho mỗi nhóm là bốn phút. Sau đó các nhóm khác sẽ có phản biện giữa các nhóm với nhau nhằm đóng góp ý kiến bổ sung cho các bản thiết kế để hoàn thiện hơn. GV phải vừa bao quát lớp vừa góp ý để các nhóm hoàn thành nhiệm vụ theo quan điểm của mình. Sau khi các nhóm báo cáo và phản biện (nếu có) GV phải là người đánh giá lại, định hướng chọn phương án thiết kế tối ưu nhất cho vấn đề đặt ra. Đáp án này là trọng tâm của câu hỏi cùng là tâm điểm kiến thức mà HS cần lĩnh hội ở bài học GV có thể gọi vài HS phát biểu suy nghĩ của các em về vai trò, tác dụng của các phản biện. Nếu HS chưa nhận ra, GV có thể chỉ cho các em biết lợi ích của việc nắm vững trong giao tiếp (người nói thể hiện đúng mực thái độ của mình, người nghe tiếp nhận cảm thấy thoải mái; đồng thời người nói có thể nắm bắt được thái độ, tình cảm của người nghe đối với mình từ đó mà có cách cư xử phù hợp 35 ) và cho VD từ tình huống giao tiếp cụ thể để minh họa (nếu chưa hết thời gian của tiết học). 2.3.2. Hình thức vừa chơi vừa học ở lớp Hình thức dạy học vừa chơi vừa học toán là dạy học bằng trò chơi, chơi là hình thức còn học là mục đích. Đây là hình thức dạy học có khả năng hấp dẫn, cuốn hút sự tham gia, sự tập trung của HS, đem lại hiệu quả nhất định bởi “biết mà học không bằng vui mà học” (Khổng Tử). Hình thức dạy học này có thể được áp dụng ở đầu tiết học để tập trung sự chú ý của HS, từ đó tạo không khí sinh động cho lớp học, tạo hứng thú học tập cho các em, dẫn dắt HS đến với nội dung bài học. Cách thức tổ chức: GV chia lớp ra làm nhiều đội chơi, mội đội cử HS lần lượt lên bảng tham gia trò chơi. GV cũng có thể tổ chức cho HS chơi thông qua các bài tập ngắn xen kẽ giữa tiết học để HS thư giãn, vừa chơi vừa học, thu hút sự tập trung chú ý của các em: Để hỏi bài cũ ta có thể giao trước nhiệm vụ cho học sinh về nhà vẽ sơ đồ tư duy bài học trước rồi chiếu lên máy chiếu và các đội lần lượt đặt câu hỏi tiếp sức trong sơ đồ tuy duy đó và tính điểm cho từ nhóm Trong một số bài dạy về hình học không gian, tôi có thể cho học sinh thi vẽ mô hình không gian AR đội nào nhanh, đúng, đẹp sẽ chiến thắng. Trò chơi cũng có thể diễn ra gần cuối tiết để củng cố bài học cho HS đồng thời GV kiểm tra được mức độ hiểu bài của các em). Chẳng hạn: Tôi sẽ cho học sinh sử dụng Mind map AR vẽ sơ đồ tư duy AR kiến thức bài học theo từng nhóm. Nhóm A có thể dùng tính năng xoay cảu bản đồ AR, thu gọn 1 nhánh để hỏi nhóm B kiến thức bài vừa học ở nhánh đó, Nhóm B trả lời rồi lại tiếp tục trò chơi hỏi nhóm C. Nhóm nào không trả lời được thì bị loại, Sau đó các nhóm nạp file sản phẩm ngay cho giáo viên qua tính năng chia sẽ sản phẩm của phần mềm Mind map AR và đồng thời chia sẽ sản phẩm cho nhóm khác. Có thể tiến hành trò chơi sắm vai tạo ra tình huống toán học theo các bước sau: GV nêu chủ đề toán học, phân vai theo từng nhóm hoặc mỗi cá nhân. Giao tình huống Toán học. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian thể hiện. Các nhóm thảo luận/cá nhân chuẩn bị đóng vai. Các nhóm/cá nhân lên đóng vai tạo tình huống và hỏi cách xử lí tình huống cho nhóm khác. Lớp thảo luận, nhận xét. GV kết luận Ví dụ: Tôi cho học sinh 1 tình huống bài tập: Yêu cầu các nhóm tạo 1 tình huống kịch dẫn dắc đến bài toán thực tiễn trong phần tìm hiểu công thức thể tích hình trụ, nón của khối 12: “ Cần ít nhất bao nhiêu hộp đựng sữa hình trụ kích thước có chiều cao 3 cmh và bán kính đáy 2 cmr để đựng 1 lít sữa tươi?” 36 Sau khi diễn kịch thì nhóm diễn sẽ hỏi 1 nhóm bất ký trong khoảng thời gian 1p cho câu trả lời và giải thích được câu trả lời. Và đương nhiên nhóm diễn cũng phải trả lời được câu hỏi Kết quả thu được: Trong vòng 5p các nhóm đã có các kịch bản. Học sinh đầu tiên phải nghĩ các kịch bản để dẫn ra tình huống trên: Có nhóm thì tạo kịch bản mẹ làm sữa chua, có nhóm thì tạo kịch bản nhà máy sản xuất hộp nâng cao doanh thu Và tất nhiên qua tình huống đó học sinh năm vững công thức tính thể tích hình trụ ứng dụng trong thực tiễn. Qua dự giờ thăm lớp và giảng dạy, tham dự các phân cảnh HS đóng vai, bản thân tôi thấy rằng: Muốn lôi cuốn Hs tham gia đóng vai, tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục, phù hợp với lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”. Sau khi đóng vai, HS chủ yếu nhận xét về cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn. Thường, kỹ năng nói, diễn của HS chưa được chú ý nhận xét thích đáng. Vì vậy, muốn HS được rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử, GV phải đề ra tiêu chí cho điểm cả kĩ năng trình bày, ứng xử của HS. Qua thời gian triển khai phương pháp này, tôi nhận thấy, nếu áp dụng nó trong không gian lớp học và thời lượng tiết học có hạn thì phương pháp này sẽ ít có hiệu quả. Nhưng khi sử dụng ở tiết ngoại khóa hoặc tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp lại rất có hiệu quả. Nếu tiến hành trong phạm vi lớp học thì GV cũng cần khích lệ (nhiều khi phải chỉ định) cả những HS nhút nhát cùng tham gia. Nên có hoá tran
Tài liệu đính kèm: