SKKN Đa dạng hóa các hình thức học tập môn Ngữ văn nhằm tạo hứng thú cho học sinh ở Trung tâm GDNN-GDTX Yên Lạc

SKKN Đa dạng hóa các hình thức học tập môn Ngữ văn nhằm tạo hứng thú cho học sinh ở Trung tâm GDNN-GDTX Yên Lạc

Ứng dụng công nghệ thông tin

Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc.

Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần nắm vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và giảng dạy, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:

* Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô đọng và được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp giảng bằng lời khó diễn tả.

* Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể vừa nghe, (hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình chiếu. Các câu hỏi nêu ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp có tác dụng gợi mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức mới. Có thể dùng nhiều câu hỏi: tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập ) nhằm phân loại được đối tượng. Có như vậy mới kích thích sự học tập của học sinh. (Lưu ý tránh những câu hỏi quá dễ hay quá khó). Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính chất đổi mới phương pháp dạy học nêu vấn đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách quan: Trong thiết kế, giáo viên cần kết hợp hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình ảnh để thể hiện sự tán thưởng, cổ vũ nồng nhiệt đối với học sinh cho câu trả lời đúng. Với những câu trả lời chưa chính xác thì thông báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở, đưa ra một gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.

 

docx 28 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 09/01/2025 Lượt xem 40Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Đa dạng hóa các hình thức học tập môn Ngữ văn nhằm tạo hứng thú cho học sinh ở Trung tâm GDNN-GDTX Yên Lạc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin.
Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao để người học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân văn luôn là điều trăn trở mà tôi tin rằng không chỉ bản thân tôi mà có lẽ là của tất cả những thầy cô, đồng nghiệp của tôi luôn đau đáu.
Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được quan điểm tình cảm, ý thức học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở bậc THPT.
1. Tạo tâm thế học tập
1.1. Tác động bằng tình cảm
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”.
Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học, trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần gũi Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích học môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu thích, say mê học môn học mà mình dạy.
1.2. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động  mới kích thích sự hứng thú học tập trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các học sinh là rất cần thiết.
Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức trong học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài học cho học sinh.
Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học  sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. HS sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn.
2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp
2.1. Linh hoạt trong phương pháp
GV luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn  giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền:
1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
– Năm sinh: ., năm mất..
– Tên khai sinh:.
– Quê quán:.
– Xuất thân trong gia đình:.
– Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:
b. Sự nghiệp sáng tác:
– Các tác phẩm chính:.
– Phong cách nghệ thuật:
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ:
– Thể loại : .
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có thể phân theo nhóm thực hiện  theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học viên hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các học sinh sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn nếu trong giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.
2.2. Đưa ra các tình huống có vấn đề
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài học mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia thành một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú cho học sinh và khéo léo đưa các học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt đầu những phần của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Chí Phèo” – sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên đặt ra những tình huống có vấn đề:
– Tại sao đến lúc cuối cùng Chí Phèo lại xách dao đến thẳng nhà Bá Kiến?
– Tại sao Chí Phèo lại hay chửi và chửi nhiều đến thế mà hóa chẳng chửi đích danh ai?
– Tại sao Nam Cao lại để cho 3 con chó “lên tiếng” đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo?
– Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn như vậy ?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cũng đặt học sinh vào tình huống có vấn đề:
– Thường khi nhắc đến sự vội vàng trong cuộc sống là muốn chỉ sự thiếu cẩn thận, hấp tấp, khó thành. Nhưng tại sao Xuân Diệu lại muốn sống vội vàng, sự vội vàng ấy có gì đặc biệt ?
Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không những tạo nên sự hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống.
2.3. Liên hệ với thực tế
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí thuyết khô khan mà xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ngữ văn là môn học đặc thù, phản ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn cảnh, tính cách, số phận xuất phát từ ngoài đời sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em học được sẽ được vận dụng vào rất nhiều tình huống của cuộc sống. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có tính chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ:
– Khi dạy bài Bản tin – Ngữ văn 11 – tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc điểm, yêu cầu của bản tin, viết được bản tin về vấn đề đời sống, xã hội quan tâm. Viết các bản tin về hoạt động thi đua chào mừng ngày Hiến chương nhà giáo Việt Nam; văn hóa Tết của gia đình
Khi dạy bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” – sách Ngữ văn 11 – tập I, cho học sinh chuẩn bị và viết một số bài phỏng vấn về vấn đề thường gặp trong đời sống : phỏng vấn và trả lời phỏng vấn khi xin việc, phỏng vấn về kinh nghiệm học tốt của bạn bè, phỏng vấn về các vấn đề xã hội đang quan tâm : giao thông, môi trường, bạo lực học đường, tình yêu tuổi học trò sẽ tạo cho học sinh sự tự tin, yêu thích môn học.
3. Ứng dụng công nghệ thông tin
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc.
Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần nắm vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và giảng dạy, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần đạt được những yêu cầu cơ bản sau:
* Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô đọng và được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp giảng bằng lời khó diễn tả.
* Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể vừa nghe, (hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình chiếu. Các câu hỏi nêu ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp có tác dụng gợi mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức mới. Có thể dùng nhiều câu hỏi: tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập ) nhằm phân loại được đối tượng. Có như vậy mới kích thích sự học tập của học sinh. (Lưu ý tránh những câu hỏi quá dễ hay quá khó). Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính chất đổi mới phương pháp dạy học nêu vấn đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách quan: Trong thiết kế, giáo viên cần kết hợp hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình ảnh để thể hiện sự tán thưởng, cổ vũ nồng nhiệt đối với học sinh cho câu trả lời đúng. Với những câu trả lời chưa chính xác thì thông báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở, đưa ra một gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
* Yêu cầu về phần trình bày khi thiết kế bài giảng điện tử: Mỗi bài giảng điện tử phần thiết kế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
– Đầy đủ: Giáo viên phải chuyển tải đủ yêu cầu về nội dung của bài học. (Đối với một bài đọc hiểu, tiếng Việt hay Làm văn thì phần trình chiếu có thể chỉ giới thiệu hình ảnh, xem như đó là bảng phụ còn phần trình bày nội dung chính ở bảng đen)
– Chính xác: Khi giáo viên chuyển tải hình ảnh, âm thanh, video hay một số ví dụ và các phần nội dung của bài học phải đảm bảo không có thông tin sai sót.
– Trực quan: Màu chữ, cỡ chữ, hình ảnh, âm thanh, bảng biểu, video clip phải sinh động hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài học.
Khi ứng dụng công nghệ thông tin trong bài học thì việc sử dụng phương tiện băng đĩa hình trong việc dạy và học môn Ngữ văn hiện n

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_da_dang_hoa_cac_hinh_thuc_hoc_tap_mon_ngu_van_nham_tao.docx