5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước giao cho ngành giáo dục. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục, trước hết
phải nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Đối với trường tiểu học,
nâng cao chất lượng dạy học trước mắt là phải dạy cho học sinh những kĩ năng
nghe – nói - đọc - viết tiếng việt và kĩ năng làm toán cùng một số kiến thức xã
hội khác. Như vậy việc dạy và học toán trong chương trình tiểu học đóng vai trò
rất quan trọng. Nó giúp học sinh có được những kĩ năng tính toán, khả năng tư
duy, sáng tạo .
Trong chương trình tiểu học môn toán là môn quan trọng, đặc biệt là
dạng giải bài toán có lời văn.
Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học
như số, phép tính, đại lượng, yếu tố hình học.đều gắn với cuộc sống hiện thực,2
trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng
giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện
cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Học sinh
có ý thức vượt khó khăn, rèn đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen
xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập
suy nghĩ,sáng tạo. Nó giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng
tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo
viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức,
kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục
những mặt thiếu sót. Giải toán có lời văn không chỉ giúp học sinh rèn luyện kĩ
năng tính toán mà còn giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề.
ường. Đối với trường tiểu học, nâng cao chất lượng dạy học trước mắt là phải dạy cho học sinh những kĩ năng nghe – nói - đọc - viết tiếng việt và kĩ năng làm toán cùng một số kiến thức xã hội khác. Như vậy việc dạy và học toán trong chương trình tiểu học đóng vai trò rất quan trọng. Nó giúp học sinh có được những kĩ năng tính toán, khả năng tư duy, sáng tạo ... Trong chương trình tiểu học môn toán là môn quan trọng, đặc biệt là dạng giải bài toán có lời văn. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như số, phép tính, đại lượng, yếu tố hình học...đều gắn với cuộc sống hiện thực, 2 trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Học sinh có ý thức vượt khó khăn, rèn đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ,sáng tạo. Nó giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Giải toán có lời văn không chỉ giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tính toán mà còn giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Đề tài "Biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt dạng toán có lời văn" Với vốn kiến thức mới của bản thân, cùng với sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp và lòng ham mê nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở tiểu học. Tôi đã nghiên cứu phân tích cho rằng: Dạy - học tốt bài toán có lời văn có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng khoa học để các em học tốt bài toán có lời văn, nhằm giúp cho học sinh phát huy cao độ tư duy logic, tư duy trừu tượng mà gốc rễ là tư duy cụ thể cho nên nó có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho học sinh học tốt môn học khác. Từ nhận thức trên cùng với thực tế nhiều năm giảng dạy, tôi đã quyết tâm làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán trong đó chú trọng việc rèn cho học sinh làm tốt giải toán có lời văn, trong quá trình giảng dạy và tôi mạnh dạn trình bày “Biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt dạng Toán có lời văn”. Hy vọng đề tài này nhằm nâng cao chất lượng học Toán cho học sinh lớp 4, tạo điều kiện cho các em học tập ở những lớp trên. Biện pháp này hoàn toàn mới, không có trong sáchvở và đây cũng chính là “Tính mới “của sáng kiến. 5.2. Nội dung sáng kiến: a.Thực trạng của vấn đề - Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán. Hầu hết các em còn dừng lại ở tư duy cụ thể, tư duy trừu 3 tượng còn hạn chế. Các em thường chưa đọc kĩ đề bài và chưa thấy được tầm quan trọng của việc tó tắt bài toán, đây là bước đầu tiên quyết định cách giải bài toán. - Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. - Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học. - Một số học sinh còn phụ thuộc vào những bài mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng những bài mẫu để hình thành lối riêng mình. Ví dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết thành câu lời giải của mình. Tóm lại: Các em chưa nắm được các bước cơ bản để giải một bài toán, học sinh chưa có ý thức rèn tính cẩn thận, kiên trì trong giải toán, tư duy logic của các em chưa phát triển. Giáo viên chưa nắm được tâm lý học sinh nên còn dùng phương pháp dạy máy móc, cứng nhắc chưa phát huy được óc sáng tạo tư duy của học sinh. Qua bàn giao lớp và phân loại học sinh đầu năm của lớp Bốn/3 tôi nhận thấy khả năng học toán của các em còn chậm đặc biệt là giải toán có lời văn. Chính vì những nguyên nhân trên đòi hỏi người giáo viên cần phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để khắc sâu kiến thức cho học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học. Muốn học sinh học tốt môn Toán ở lớp 4 thì giáo viên phải thực hiện tốt những việc sau: b. Các giải pháp thực hiện 1. Phân loại chất lượng học toán của học sinh : Đầu năm học sau khi nhận phân công chuyên môn từ ban giám hiệu, qua việc bàn giao chất lượng học sinh từ giáo viên chủ nhiệm cũ và giáo viên chủ nhiệm mới, tôi đã tìm hiểu để nắm chất lượng và tình hình học tập của học hinh trong lớp đồng thời dựa vào kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại chất lượng học toán của học sinh lớp mình. 2. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh chưa đạt chuẩn: Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân, vậy học sinh học chưa đạt chuẩn toán cũng có nguyên nhân do đâu mà các em học chưa đạt. Việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các em học chưa đạt chuẩn là hết sức quan trọng giúp giáo viên nắm được tình hình của các em, từ đó có biện pháp hỗ trợ, bồi dưỡng phù 4 hợp. Ngay từ đầu năm học qua bài khảo sát chất lượng đầu năm tôi đã tiến hành phân loại học sinh và tìm ra những nguyên nhân học sinh còn chưa đạt chuẩn như: - Các em chưa đọc kĩ đề bài. - Chưa nắm vững các bước của bài toán. - Một số em tiếp thu còn thụ động, ghi nhớ máy móc, nhanh quên - Ý thức tự học của các em chưa cao. 3. Phối hợp với phụ huynh. Đầu năm học tổ chức họp phụ huynh để trao đổi một số vấn đề cần thiết phục vụ cho các em học tập được tốt. Tôi đề nghị với mỗi phụ huynh phải mua đầy đủ SGK, vở bài tập, bộ đồ dùng để học toán. Phụ huynh phối hợp cùng giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở các em học bài ở nhà để các em có thói quen chuẩn bị và xem bài trước ở nhà để đến lớp học tốt hơn. 4. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đối tượng học sinh. Sau khi thực hiện các công việc tôi tiến hành lập kế hoạch để hỗ trợ học sinh chưa đạt chuẩn trong lớp mình, khi lập kế hoạch cần chú ý đề ra các biện pháp và chỉ tiêu cụ thể theo từng giai đoạn năm học, học kỳ, tháng. Quá trình thực hiện sau mỗi tháng phải phân tích đánh giá tình hình thực tế các em có tiến bộ hay không để điều chỉnh các biện pháphỗ trợ kịpthời. 5. Xây dựng các bước tiến hành dạy toán giải có lời văn. Quá trình thực hiện giảng dạy các bài toán có lời văn giáo viên cần chú ý thực hiện thực hiện tốt trình tự các bước giải bài cụ thể như sau: Bước 1: Tìm hiểu kỹ nội dung bài tập. Bước 2: Tóm tắt bài toán. Bước 3: Phân tích (tìm cách giải bài toán) Bước 4: Tổng hợp (trình bày bài giải) Bước 1: Tìm hiểu kỹ nội dung bài tập. Yêu cầu học sinh nhất thiết phải đọc kĩ đề bài (3 lần trở lên) tìm hiểu đề để biết được cái đã cho và cái phải tìm, đây là điều quan trọng không thể bỏ qua được. Giáo viên cần nhắc nhở học sinh cần tránh thói quen xấu là vừa đọc đầu bài xong học chưa hiểu kĩ đề bài đã vội vàng giải bài toán. Như vậy không tránh khỏi sự bế tắc khi giải toán hoặc làm lạc đề toán. 5 Để giúp học sinh hiểu rõ đề hoặc tránh việc học sinh bỏ qua việc tìm hiểu bài, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi để giúp học sinh hiểu dễ hơn. Ví Dụ : Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại đề toán mà không cần phải tìm sách vở. Nếu các em nhớ đọc đề lại được cũng có nghĩa là các em đã hiểu đề. Bước 2: Tóm tắt bài toán Đây là bước rất quan trọng, nó là kết quả ban đầu của một tiết học bài mới. Lúc này bài toán được tóm gọn lại. Chủ yếu bằng lược đồ, chữ. Nhờ đó mà mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện rõ hơn và dễ hiểu hơn. Học sinh cần phải tóm tắt được bài toán; biết phân tích, tổng hợp, xác định được yêu cầu của bài ra, tìm ra cách giải thích hợp. Ở chương trình lớp 4 giáo viên dạy học sinh với cách tóm tắt như sau: a) Tóm tắt bằng chữ : Ví dụ : Mỗi quyển sổ có 48 trang. Hỏi 25 quyển vở cùng loại có bao nhiêu trang? Tóm tắt : 1 Quyển vở : 48 trang. 25 Quyển vở : .........trang? b) Tóm tắt sơ đồ đoạn thẳng : Ví dụ : Tìm hai số biết tổng của chúng bằng 198 và tỉ của hai số đó là 8 3 Tóm tắt : Số bé Số lớn 198 ? ? 6 c) Tóm tắt bằng chữ và dấu ( thường là mũi tên ngoặc đơn) Ví dụ : Một huyện trồng 325164 cây lấy gỗ và 60830 cây ăn quả. Hỏi huyện đó trồng được là bao nhiêu cây? Tóm tắt: Cây lấy gỗ : 325164 cây ? Cây Cây ăn quả : 60830 cây Trên đây là một số cách tóm tắt bài toán để dạy học sinh lớp 4. Đối với học sinh lớp 4 thì các kiểu tóm tắt trên rất thông dụng đối với học sinh. Cách tóm tắt đó giúp học sinh dễ hiểu và khi học sinh đã tóm tắt bài toán thì các em dễ dàng tìm ra cách giải . Bước 3: Phân tích đề toán (tìm cách giải bài toán) Đây là bước quan trọng trong quá trình giải toán tập trung cao độ tư duy của học sinh. Để lập được các mối liên quan giữa các đại lượng, trong bước này người thầy giúp các em hiểu biết suy luận. Muốn biết được yêu cầu của đề bài là gì? Thì phải làm như thế nào? Để thực hiện được điều đó giáo viên cần tổ chức cho học sinh đọc kĩ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như : "Tất cả", "còn lại", "Tổng", "hiệu", "tổng", "tỉ", "gấp", "kém". Trong thời kì đầu giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt bằng cách đàm thoại "Bài toán cho gì?. Hỏi gì? " dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt. Sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách đạt được rất tốt để học sinh ngầm phân tích đề toán. Ví dụ : Người ta đổ đều 128610 lít xăng vào 6 bể. Hỏi mỗi bể đó có bao nhiêu lít xăng ? Qua ví dụ trên ta phân tích như: - Bài toán cho biết gì ? (đổ đều 128610 lít xăng vào 6 bể) - Bài toán hỏi gì? ( 1 bể có bao nhiêu lít dầu?) - Giáo viên nêu tiếp : Muốn biết 1 bể có bao nhiêu lít dầu ta làm như thế nào? - Giáo viên hướng dẫn cách viết đơn vị tính ( "lít xăng" vào dấu ngoặc đơn). 7 Trong các bước phân tích bài toán giáo viên cần hướng dẫn học sinh qua các câu hỏi cụ thể để đi đến yêu cầu bài toán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh qua các câu hỏi cụ thể đi đến yêu cầu được giải quyết tránh tình trạng lan man, thiếu trọng tâm và hướng dẫn học sinh đi lệch vấn đề. Bước 4: Tổng hợp (trình bày bài giải) Đây là bước cụ thể hoá quá trình tư duy trên, nó được thể hiện rõ nét kỹ năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh. Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để viết bài giải, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại tư duy khi phân tích. Nhìn vào bản tóm tắt phân tích ví dụ đến trình bày bài giải như sau: Bài giải. Số lít xăng trong mỗi bể là 128610 :6 = 21435(lít xăng) Đáp số : 21435 lít xăng Lưu ý: Khi giải các bài toán có lời văn thông thường các em chỉ cần viết được bước 4, còn lại các bước 1, 2, 3 là bước suy nghĩ và làm miệng. Song cũng cần phải tỉ mỉ, cẩn thận. Chính vì việc để cho các em suy nghĩ cho nên dẫn đến các em đa số qua loa, đại khái, dẫn đến kết quả sai, trong khi giải bế tắc. - Trong quá trình giảng dạy bài toán có lời văn có hai điều mà chúng ta cần phải lưu ý : + Luôn củng cố ý thức nắm các dạng toán, các bước giải toán. + Thành thạo kỹ năng tính toán, học thuộc bảng nhân, chia. Biết làm tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên, phân số. - Nếu quá trình giải toán học sinh không nắm được quy tắc tiến trình các bước thì không thể tránh được sự nhầm lẫn, bài toán có thể bế tắc hoặc tìm ra cách giải chưa hay chưa nhanh nhất. Khi giải một bài toán có lời văn dù đơn giản hay phức tạp thì học sinh cần phải thực hiện chặt chẽ các bước tiến hành không thể qua loa đại khái bước nào thì kết quả mới cao. Điều này giáo viên và học sinh cần ghi nhớ. - Nếu trong quá trình giải toán học sinh không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia thì kết quả không tránh khỏi sự sai sót. Đây chính là kĩ năng quan trọng trong tính toán. Vì thế cho nên bất kì bài toán nào cũng đòi hỏi đến kĩ năng tính toán. Vì vậy giáo viên cần phải luôn rèn luyện cho học sinh thực hành thành thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, chia để vận dụng vào giải toán. 8 Qua 1 số biện pháp kể trên ta có thể nhận thấy dễ dàng. Muốn giải bài toán có lời văn tốt thì học sinh phải : - Nắm chắc các dạng toán, đường lối chung giải bài toán. - Học thuộc và vận dụng thành thạo. 6. Tổ chức thực hiện tiết dạy. Đối với lớp 4 toán có lời văn không chỉ có đơn thuần ở phép tính mà các em đã học rất nhiều dạng toán và giải bằng nhiều phép tính như tôi đã nêu một số dạng ở phần A. Ví dụ : Bài tập 3 SGK trang 85 ( thời gian 5 -7 phút) - Gọi 3 em học sinh đọc to, rõ ràng đề bài toán. - Giáo viên hỏi : Bài toán cho biết gì (Học sinh trung bình yếu) + Tổng chiều dài và chiều rộng : 307m + Chiều dài hơn chiều rộng : 97m - Bài toán hỏi gì? ( Học sinh khá trả lời ) + Tính chu vi và diện tích mảnh vườn đó. - Học sinh nhìn vào tóm tắt bài toán ( Một học sinh khá đọc trước, một em trung bình đọc sau). - Đối với học sinh trung bình và yếu tôi thường hướng dẫn suy luận từng dữ kiện đề toán. + Bài toán hỏi gì ? (chu vi, diện tích mảnh vườn) + Muốn tìm chu vi ta làm thế nào ?(chiều rộng + chiều dài)x 2 chiều rộng chưa biết, chiều dài chưa biết. - Muốn tìm chiều dài ta làm như thế nào ? ( Tổng + hiệu) :2 - Muốn tìm chiều rộng ta làm như thế nào ? ( Tổng – chiều dài) * Đối với tính diện tích tôi cũng hướng dẫn như thế . - Muốn tính diện tích ta làm như thế nào? (chiều rộng + chiều dài) - Học sinh có thể hiểu từ quá trình phân tích của giáo viên như sau: Chiều dài = (Tổng + hiệu) : 2 Chiều rộng = tổng – chiều dài 9 Chu vi = ( Chiều dài + chiều rộng) x 2 Diện tích = chiều dài x chiều rộng Quá trình phân tích trên đã giúp học sinh giải bài toán 1 cách dễ dàng. Bài giải Chiều dài mảnh đất hình chữ nhật là. (307 + 97) : 2 = 202 (m) Chiều rộng hình mảnh đất hình chữ nhật là. 307 - 202 = 105(m) Chu vi mảnh đất hình chữ nhật chữ nhật là. (202 + 105) x 2 = 614 (m) Diện tích mảnh đất hình chữ nhật là. 202 x 105 = 21210 (m2) Đáp số : Chu vi : 614 m Diện tích : 21210 m2 Tuy giáo viên đã gợi ý rất kĩ nhưng đối với học sinh hiện nay các em chưa đưa ra cho mình được một câu lời giải thích hợp. Các em còn lúng túng trong việc tìm lời giải cho mỗi bài toán. Nhiều khi cách viết chưa chính xác, thậm chí còn sai khá phổ biến. Qua ví dụ trên trong lớp đã có em đặt lời giải là. - Chiều rộng mảnh vườn hình chữ nhật là ở phép tính (307+97) : 2. - Diện tích mảnh đất hình chữ nhật là ở phép tính (202 +105) x 2 Vậy để giúp học sinh tìm ra câu lời giải nhanh và đúng nhất giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải sau : - Dựa vào yêu cầu toán bài toán, nắm được từng bước của toán xem bài toán bắt tìm gì? và tìm gì trước? Ở VD trên ta có thể tìm chiều rộng trước rồi đến chiều dài, đến chu vi, diện tích hoặc diện tích đến chu vi. Nhưng lời giải phải phù hợp và đúng với phép tính. Ở đây, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự nêu nhiều câu hỏi giải khác nhau, sau đó cùng bàn bạc thảo luận để tìm ra lời giải thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh phải tuân theo một kiểu nhất định. Cứ làm nhiều lần như vậy học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng. Do đó các 10 em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải trong bài toán giải có lời văn. Như vậy để học sinh trình bày bài giải được đúng, đủ, giáo viên phải luôn nhắc nhở học sinh cách trình bày bài toán hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại các việc cần làm khi giải một bài toán. Vậy quá trình nghiên cứu giảng dạy ta cần chú ý đến các bước giải toán. Cụ thể có 4 bước sau: - Đọc, hiểu đề toán. - Tóm tắt đề toán. - Phân tích đề toán tìm ra phép tính giải toán. - Trình bày bài giải. * Kiểm tra vấn đáp học sinh vào một bài cụ thể. - Khi giải bài toán có lời văn phải thực hiện theo 4 bước . - Học sinh trả lời được các bước cụ thể (trước đây học sinh còn lúng túng khi giải bài toán có lời văn) - Học sinh có hướng giải nhanh hơn, kết quả đúng, chính xác (so với cuối kì I, một số em không tự tóm tắt được đề toán hoặc không viết được câu trả lời cho phép tính). - Học sinh nắm vững các phép tính cộng, trừ, nhân, chia , số tự nhiên, phân số. - Học sinh vận dụng thành thạo vào trong các bài tập. * Qua thực tế việc dạy những bài toán có lời văn ở trường tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là cần thiết và cấp bách. Nó được chuyển đổi từ cách dạy của thầy và trò một cách tập trung, toàn diện hơn. 5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Biện pháp này có thể áp dụng cho toàn thể học sinh khối 4 ở trường Tiểu học An Lộc A và học sinh khối 4 trong toàn địa bàn thị xã Bình Long. 6. Những thông tin cần được bảo mật: Không 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Giáo viên tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong giảng dạy, có năng lực truyền thụ kiến thức tốt, yêu thương học sinh như chính con mình. Sự nỗ lực của học sinh trong học tập. Ngoài ra cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học là những điều kiện không thể 11 thiếu trong việc giảng dạy cho các em. Phải kết hợp với gia đình trong nhắc nhở, kiểm tra, đôn đốc việc học tập của các em . 8. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến: a. Kết quả đạt được: Trong học kì I của năm học này, với biện pháp dạy học như trên tôi đã thấy rõ sự tiến bộ của học sinh lớp tôi trong việc giải toán. Những kết quả mà các em đạt được sau những tiết học, sau kỳ thi kiểm tra học kỳ I do nhà trường ra đề đã cho thấy công sức tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định. Lớp Bốn/3 do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy có kết quả như sau: Năm học 2019 – 2020, kết quả học tập môn Toán của lớp đạt được như sau : SS lớp : 33 em Môn Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Điểm dưới 5 HTT HT CHT Toán 19 3 5 2 1 2 0 22 11 0 Năm học 2020 – 2021, kết quả học tập môn Toán HKI của lớp đạt được như sau : SS lớp : 40 em Môn Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Điểm dưới 5 HTT HT CHT Toán 25 5 6 2 2 0 0 30 8 0 b. Bài học kinh nghiệm: Để có được kết quả cao trong học tập của học sinh thì sự giảng dạy nhiệt tình của giáo viên thôi chưa đủ. Mỗi một môn học, mỗi một bài học, mỗi một tiết học đều có một sắc thái, một đặc điểm riêng, đòi hỏi một phương pháp riêng phù hợp với nó. Vì vậy, ngoài những phương pháp chung đã được sách báo in thành chương, thành mục, mỗi giáo viên cần xây dựng cho mình một biện pháp dạy học riêng, với những kiến thức đã có và những kiến thức, những kinh nghiệm được đúc kết qua những năm tháng giảng dạy. Những kinh nghiệm đó không phải đã ghi sẵn trong tài liệu hướng dẫn giảng dạy nên không ai giống ai. 12 Vì vậy, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp cũng là một công việc không thể thiếu nhằm thúc đẩy và nâng cao kết quả học tập của học sinh. + Giúp các em khắc phục khó khăn khi giải toán có lời văn là một vấn đề không thể thiếu được đối với người thầy giáo trong mỗi giai đoạn. + Không bỏ qua bước dạy nào. + Cần tìm ra nhiều cách giải và tự chọn ra phương pháp hay nhất để dạy có hiệu quả cao. + Phải vận dụng thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, kĩ năng tính toán thông thường. Trong thực tiễn dạy học, giáo viên nên dạy về một số các phép tính giải toán có lời văn trong sự liên kết gắn bó với nhau. Trong phương pháp dạy học hiện nay: " Lấy học sinh làm trung tâm" giáo viên là người tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh chủ động tìm ra kiến thức của bài, song điều quan trọng là phải kết hợp được nhiều lực lượng. - Gia đình, hội phụ huynh học sinh. - Giáo viên, nhà trường, đoàn, đội. - Quan tâm giúp đỡ cho học sinh đến từng đối tượng yếu, kém. - Thông tin đến từng gia đìn
Tài liệu đính kèm: