Niên biểu: Là là bảng hệ thống hóa các sự kiện lịch sử quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu được mối quan hệ giữa các sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử. Có nhiều loại niên biểu khác nhau:
Niên biểu tổng hợp: Là bảng hệ thống các sự kiện lớn sảy ra trong một thời gian dài. Loại niên biểu này giúp học sinh ghi nhớ các sự kiện chính với thời gian và không gian mà nó sảy ra, đồng thời còn nắm được mối liên hệ biện chứng giữa các sự kiện.
Ví dụ: Khi giảng dạy bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954)” chương trình SGK Lịch sử 12 ban cơ bản phần Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954; Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng niên biểu tổng hợp về nội dung các giai đoạn phát triển cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.
- Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát lập niên biểu niên biểu và các tiêu chí đặt ra đòi hỏi học sinh phải hoàn thiện kiến thức.
- Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi: Dựa vào mốc thời gian hãy hoàn chỉnh nội dung phát triển cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954.
quả giảng dạy của giáo viên và giúp học sinh học tập tích cực nhằm phát triển khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp kiến thức và tập trung nghiên cứu, tìm hiểu việc ứng dụng đồ dùng trực quan nhằm phát triển tính tích cực, học tập sáng tạo của học sinh khi học phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Với vai trò thực tiễn trên, trong quá trình giảng dạy của giáo viên cũng như trong phương pháp học tập bộ môn của học sinh chúng ta cần khai thác triệt để đồ dùng trực quan lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy – học. Xuất phát từ những vấn đề trên và qua kinh nghiệm giảng dạy chương trình Lịch sử lớp 12 ở trường THPT số 2 Bảo Yên, tôi mạnh dạn đề xuất đề tài: “Một vài kinh nghiệm về sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam (1945-1954)”. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền văn minh tri thức, trong đó cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh như vũ bão cùng với xu thế hội nhập toàn cầu hóa trở thành chủ đạo của các mối quan hệ quốc tế hiện nay đòi hỏi các quốc gia dân tộc phải tiến hành đổi mới trên tất cả lĩnh vực phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại. Thực tiễn nhiều năm qua chúng ta thấy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông đã trở thành một vấn đề trung tâm của ngành giáo dục nhằm đổi mới cách học tập của học sinh cũng như phương pháp giảng dạy của giáo viên đòi hỏi phải phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Ở Việt Nam, đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo làm cho quá trình “học” là quá trình kiến tạo, ở đó học sinh được tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và sử lý thông tinđể tìm ra chân lý. Do vậy đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề rất cần thiết. Trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung cũng như bộ môn lịch sử nói riêng, việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong giảng dạy sẽ đem lại hiệu quả giảng dạy lại phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn. Trong quá trình giảng dạy không phải tất cả giáo viên cũng đều sử dụng các phương pháp giống nhau trong cùng một bài học lịch sử mà mỗi giáo viên có cách sử dụng, lựa chọn riêng. Nhưng trong quá trình sử dụng không ít giáo viên chưa nắm tốt phương pháp dẫn đến chưa phát huy được hiệu quả cao nhất của việc sử dụng đồ dùng trục quan. Vì vậy muốn đạt kết quả tốt nhất khi sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử cần căn cứ vào nội dung kiến thức của bài, mục đích, yêu cầu đặt ra để lựa chọn đồ dùng phù hợp phục vụ cho giảng dạy. Trong chương trình lịch sử lớp 12 phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 đề cập đến nhiều vấn đề lịch sử quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta như tình hình khó khăn nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và quá trình giải quyết khó khăn trên của Đảng, Nhà nước ta; diễn biến kết quả và ý nghĩa cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp cũng như bước phát triển cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi đây là những nội dung rất quan trọng đòi hỏi tất cả học sinh đều phải nắm được và vận dụng vào làm các bài tập lịch sử. Thực tế nhiều năm giảng dạy Lịch sử lớp 12, tôi thấy học sinh ở trường THPT số 2 Bảo Yên nhận thức và hiểu biết sâu vấn đề này còn yếu, chất lượng bài làm lịch sử của học sinh chưa cao. Do vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước khi giảng dạy phần này sẽ rất phù hợp, tính hiệu quả giáo dục cao lại phát huy tính tư duy của học sinh trong quá trình học tập. Chính vấn đề này đã lôi cuốn sự chú ý của học sinh, tạo nên ở các em một quá trình tư duy lôgic, sáng tạo tìm ra chân lý bài học. Từ những sự kiện, nội dung cơ bản giúp các em nắm vững bài học, liên kết được quá trình phát triển toàn diện lịch sử của dân tộc và mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc với lịch sử thế giới. 2. Thực trạng giảng dạy việc sử dụng đồ dùng trực quan về phần Lịch sử Việt Nam (1945-1954) 2.1. Thực trạng nhận thức Thực tế hiện nay việc đổi mới phương pháp giảng dạy vẫn chưa đồng bộ trên phạm vi cả nước do nhiều nguyên nhân khác nhau như đặc điểm từng địa phương khác nhau, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng chưa đồng đều, nhiều giáo viên vẫn sử dụng lối dạy học đọc - chép, giảng dạy phần lịch sử phần Việt Nam (1945-1954) như một bài văn thuyết trình, trong giờ học chỉ diễn ra một chiều từ người thầy giáo truyền đạt đến học sinh, thầy làm việc nhiều lại không phát huy được tính tích cực của học sinh. Lối học này, chúng ta thấy học sinh như một cỗ máy bị động nhồi nhét kiến thức từ người thầy không có sự trao đổi qua lại, thảo luận giữa người thầy và học sinh và giữa học sinh với nhau. Bên cạnh vấn đề trên, chúng ta còn thấy nhiều giáo viên chưa thấy tầm quan trọng về đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng, trong quá trình giảng dạy chưa phát huy tính tự học, sáng tạo, thảo luận của học sinh; việc ứng dụng đồ dùng trực quan quy ước cũng chưa đạt hiệu quả mà mục tiêu bài dạy đặt ra. 2.2. Thực trạng kĩ năng Trong thực tế giảng dạy vẫn còn nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan còn mang tính chung chung, làm cho có lệ hoặc nếu sử dụng thì cũng hạn chế, khai thác đồ dùng chưa tuân thủ qua các bước nên chưa đạt hiệu quả về kết quả về kiến thức, chưa hướng dẫn được học sinh các bước khai thác kiến thức qua đồ dùng trực quan. Bên cạnh đó kĩ năng khai thác kiến thức, tổng hợp kiến thức qua đồ dùng trực quan của hầu hết học sinh còn rất yếu, chưa biết hoặc rất hạn chế có kĩ năng này. Do vậy trong quá trình giảng dạy phần lịch sử Việt Nam (1945-1954) nếu giáo viên không hướng dẫn kĩ học sinh cách khai thác kiến thức qua đồ dùng trực quan thì tất yếu kĩ năng khai thác kiến thức, tự học và tính tích cực của học sinh sẽ hạn chế, chất lượng ghi nhớ kiến thức, áp dụng vào làm tập lịch sử hiệu quả không cao. Từ đó dẫn tới học sinh không đam mê, thích thú học tập bộ môn Lịch sử. 3. Một vài kinh nghiệm việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam (1945-1954) 3.1. Một số giải pháp thực tế Chúng ta thấy có rất nhiều loại đồ dùng trực quan quy ước phục vụ cho công tác giảng dạy nhằm phát huy tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập. Trong khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi mạnh dạn đề xuất và trình bày một vài kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn lịch sử về việc sử dụng một số loại hình đồ dùng trực quan quy ước là: phương pháp tạo sơ đồ, niên biểu, sử dụng lược đồ, khai thác tranh ảnh trong Sách Giáo Khoa lịch sử 12 phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn (1945-1954). Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy muốn đạt hiệu quả cao nhất đảm bảo đổi mới phương pháp dạy học, học sinh tích cực học bài chúng ta phải lưu ý các kĩ năng sử dụng đồ dùng như: vẽ, thiết kế; tường thuật, miêu tả; quan sát, so sánh; nhận định, đánh giá rút ra quy luật, bài học lịch sử Để khai thác tốt đồ dùng trực quan cần tiến hành đúng tiến trình cụ thể: - Bước 1: Cho học sinh quan sát lược đồ trong đó cả nội dung và các kí hiệu - Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề và gợi ý nội dung bản đồ - Bước 3: Học sinh trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả - Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung cho học sinh hoàn chỉnh kiến thức 3.2. Vận dụng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy phần lịch sử Việt Nam (1945-1954). 3.2.1. Phương pháp tạo sơ đồ Sơ đồ là loại đồ dùng trực quan quy ước được sử dụng để cụ thể hóa nội dung một sự kiện lịch sử bằng những hình học đơn giản, diễn tả một tổ chức, cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị hay mối quan hệ giữa các nội dung lịch sử. Ví dụ: Khi giảng dạy bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946” chương trình SGK Lịch sử 12 Ban cơ bản phần Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945; giáo viên hướng dẫn học sinh lập sơ đồ khó khăn của các mạng nước ta sau năm 1945. - Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát và giới thiệu về sơ đồ - Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi: Từ việc tìm hiểu tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, em hãy phân tích sơ đồ. - Bước 3: Học sinh bám sát sơ đồ trình bày nội dung kiến thức - Bước 4: Giáo viên nhận xét, chốt ý kiến thức và hướng dẫn học sinh cách học và khai thác kiến thức qua sơ đồ Giặc đói, giặc dốt Chính quyền cách mạng non trẻ Thù trong, giặc ngo Tình hình trong nước Tình thế ngàn cân treo sợi tóc Tình hình thế giới Phản kích của CN đế quốc Khó khăn sau cách mạng tháng Tám năm 1945 Lược đồ khó khăn của cách mạng nước ta sau năm 1945 3.2.2. Phương pháp sử dụng hệ niên biểu thống kê, so sánh Niên biểu: Là là bảng hệ thống hóa các sự kiện lịch sử quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu được mối quan hệ giữa các sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử. Có nhiều loại niên biểu khác nhau: Niên biểu tổng hợp: Là bảng hệ thống các sự kiện lớn sảy ra trong một thời gian dài. Loại niên biểu này giúp học sinh ghi nhớ các sự kiện chính với thời gian và không gian mà nó sảy ra, đồng thời còn nắm được mối liên hệ biện chứng giữa các sự kiện. Ví dụ: Khi giảng dạy bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954)” chương trình SGK Lịch sử 12 ban cơ bản phần Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954; Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng niên biểu tổng hợp về nội dung các giai đoạn phát triển cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954. - Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát lập niên biểu niên biểu và các tiêu chí đặt ra đòi hỏi học sinh phải hoàn thiện kiến thức. - Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi: Dựa vào mốc thời gian hãy hoàn chỉnh nội dung phát triển cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954. - Bước 3: Học sinh trả lời và bám sát hướng dẫn niên biểu để trình bày. - Bước 4: Giáo viên nhận xét, chốt ý kiến thức và hướng dẫn học sinh cách học và khai thác kiến thức qua niên biểu tổng hợp. Thời gian Các sự kiện chủ yếu Cuối 9/1953 Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng họp ở Việt Băc bàn kế hoạch quân sự trong đông-xuân 1953-1954: “Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai.” 10/12/1953 Ta giải phóng Lai Châu, Nava đưa 6 tiểu đoàn cơ động tăng cường cho Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của Pháp 12/1953 liên quân Việt-Lào mở chiến dịch Trung Lào giải phóng Thà Khẹt uy hiếp Vavanakhét và Xênô. Nava tăng cường lực lượng cho Xênô. Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp Cuối 1/1954 Liên quân Lào-Việt mở chiến dịch Thượng Lào giải phóng Phongxalì. Nava buộc phải điều quân cho Luông Pha Bang và Mường Sài biến hai địa điểm này thành nơi tập trung binh lục thứ tư của Pháp Đầu 2/1954 Ta tiến công Tây Nguyên giải phóng Kon Tum uy hiếp Plâycu, buộc Pháp tăng cường cho Plâycu. Plâycu trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của Pháp ` Niên biểu so sánh: Là loại niên biểu dùng để so sánh, đối chiếu một hay nhiều sự kiện lịch sử sảy ra cùng thời gian nhằm làm nổi bật bản chất, đặc trưng của các sự kiện ấy từ đó rút ra kết luận khái quát. Ví dụ 1: Khi giảng dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950)” chương trình SGK Lịch sử 12 ban cơ bản phần Chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947 và phần Chiến dịch Biên giới năm 1950; Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng niên biểu so sánh về Chủ trương, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của hai chiến dịch Việt Bắc năm 1947 và Chiến dịch Biên giới năm 1950. Từ đó giúp học sinh thấy được mối liên hệ lịch sử và thấy được sự phát triển chuyển mình của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cách mạng nước ta là cách mạng chuyển từ thế phòng ngự sang thế chủ động tiến công trên chiến trường, đẩy quân Pháp vào thế phòng ngự bị động đối phó - Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát niên biểu và các tiêu chí cụ thể yêu cầu học sinh phải so sánh. - Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi: Dựa vào các tiêu chí so sánh hãy hoàn chỉnh bảng hệ thống kiến thức. - Bước 3: Học sinh bám sát các tiêu chí hướng dẫn trả lời câu hỏi. - Bước 4: Giáo viên nhận xét, chốt ý kiến thức và hướng dẫn học sinh cách học và khai thác kiến thức qua niên biểu so sánh (thấy được mối liên hệ lịch sử và thấy được nội dung cách mạng nước ta qua hai chiến dịch Việt Băc 1947 và Chiến dịch Biên giới 1953, đồng thời thấy được sự phát triển về hình thái trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nội dung Chiến dịch Việt Bắc 1947 Chiến dịch Biên giới 1950 Chủ trương của ta Đảng ta chỉ thị: “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”. Chỉ thị nêu rõ: “Giam chân địch, bao vây những căn cứ đóphải giữ gìn chủ lực, nhưng đồng thời cũng phải nhằm những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội” 6/1950, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm: tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông đường sang Trung Quốc và trên thế giới dân chủ; mở rộng và củng cố căn cứa địa Việt Bắc, tạo thuân lợi mới thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên Diễn biến chính - Ở Bắc Kạn, ta chủ động bao vây, tiến công địch buộc Pháp rút khỏi chợ Đồn, chợ Rã cuối tháng 11/1947. - Ở mặt trận hướng Đông: ta tổ chức nhiều trận phục kích trên đường số 4, đặc biệt trận đèo Bông Lau (30/10/1947) đẩy địch vào thế bị động. - Ở mặt trận hướng Tây: ta liên tục chặn đánh địch hàng chục trận trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan Hùng, Khe Lau đánh chìm nhiều tàu chiến, ca nô, diệt nhiều địch. - Ngày 19/12/1947, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc - Sáng 16/9/1950 ta tấn công Đông Khê, uy hiếp Thất Khê, Cao Bằng bị cô lập buộc Pháp rút khỏi Cao Bằng. - Phía địch: Huy động quân từ Thất Khê chiếm lại Đông Khê, đón quân từ Cao Bằng về, cho quân đánh lên Thái Nguyên. - Phía ta: quân ta mai phục buộc 2 cánh quân từ Thất Khê và Cao Bằng không gặp nhau, đội quân từ Thái Nguyên lên bị chặn đánh, đường số 4 được giải phóng (22/10/1950). - Trên các mặt trận khác quân dân ta ra sức thi đua giết giặc lập công, chiến tranh du kịch Kết quả Loại khỉ vòng chiến hơn 6000 tên địch, hạ 16 máy bay, 11 tàu chiến và ca nô, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh Loại khỏi vòng chiến 8.000 tên địch, khai thông biên giới Việt-Trung, chọc thủng hành lang Đông-Tây, kế hoạch Rơ-ve bị phá sản Ý nghĩa Căn cứ Việt Bắc mở rộng, TW Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn an toàn, bộ đội ta ngày càng trưởng thành. - Giáng đòn quyết định vào chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” buộc Pháp sang đánh lâu dài với ta. - Tạo điều kiện cho ta xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến toàn quốc, toàn dân, toàn diện lâu dài - Là chiến dịch lớn ta chủ động mở đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh dấu sự trưởng thành quân đội ta về sức mạnh chiến đấu từ đánh du kích sang tập trung, phát triển vượt bậc về nghệ thuật chỉ đạo kháng chiến của Đảng. - Quân ta vươn lên nắm quyền chủ động trên chiến trường, đẩy Pháp lún sâu vào thế bị động đối phó 3.2.3. Phương pháp sử dụng lược đồ Lược đồ là loại đồ dùng trực quan quy ước quan trọng và rất quen thuộc trong dạy học lịch sử. Lược đồ giúp học sinh xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định, đồng thời còn giúp học sinh suy nghĩ, giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả. Lược đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện tự nhiên mà chủ yếu có những kí hiệu, dấu mốc về biên giới, thành phố, địa điểm sảy ra các sự kiện nội dung lịch sử (các cuộc khởi nghĩa, phong trào cách mạng, chiến dịch) các minh họa trên lược đồ đảm bảo được tính chính xác, khoa học và tính thẩm mĩ cao. Có hai loại lược đồ chính: Lược đồ tổng hợp phản ánh những nội dung lịch sử quan trọng nhấtvà lược đồ chuyên đề diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt của một nội dung lịch sử như diễn biến một trận đánh Ví dụ: Khi giảng dạy bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháo kết thúc (1953-1954)” chương trình SGK Lịch sử 12 Ban cơ bản phần diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ; Giáo viên sử dụng “lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954” để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên lược đồ về các giai đoạn diễn ra chiến dịch. Từ đó giúp học sinh khắc sâu kiến thức về diễn biến và ý nghĩa của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. - Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và hướng dẫn phần chú giải trên lược đồ. - Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi: Dựa vào lược đồ hãy trình bày các giai đoạn phát triển của chiến dịch Điện Biên Phủ. - Bước 3: Học sinh trả lời câu hỏi. - Bước 4: Giáo viên nhận xét, chốt ý kiến thức và hướng dẫn học sinh cách học và khai thác kiến thức qua lược đồ. Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ 3.2.4. Phương pháp sử dụng tranh ảnh trong Sách Giáo Khoa Tranh ảnh trong Sách Giáo Khoa là loại đồ dùng trực quan quy ước quan trọng và quen thuộc trong dạy học lịch sử. Tranh ảnh giúp học sinh quan sát, tưởng tượng được nội dung lịch sử diễn ra. Ví dụ: Khi giảng dạy bài 18 “Những năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950)” chương trình SGK Lịch sử 12 Ban cơ bản phần Cuộc chiến đấu ở các đô thi; Giáo viên sử dụng tranh ảnh trong SGK “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức về cuộc kháng chiến ở các đô thị trên đất nước ta mà đặc biệt diễn ra ở thủ đô Hà Nội. - Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát hình ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp”. - Bước 2: Nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: Hình ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” nói lên điều gì? - Bước 3: Học sinh vận dụng kiến thức sách giáo khoa trả lời. - Bước 4: Giáo viên nhận xét, chốt kiến thức và hướng dẫn học sinh cách khai thác kiến thức dựa vào tranh ảnh phải bám sát sách giáo khoa. 4. Hiệu quả áp dụng của sáng kiến Trong thực tế giảng dạy Lịch sử chương trình lớp 12 Ban cơ bản phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 ở trường THPT Số 2 Bảo Yên bản thân tôi thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước vào công tác giảng dạy cũng như hình thành phương pháp tự học của học sinh đạt hiệu quả tốt và phát huy được tính tích cực cũng như năng lực tự tổng hợp kiến thức của học sinh. Kết quả kiểm tra nhận thức sau khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước áp dụng cho phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 cho thấy, khả năng nhớ và vận dụng kiến thức lịch sử, trình bày vấn đề của các em tốt hơn các lớp đối chứng trong năm học trước. Những mặt tích cực có được chắc chắn là hệ quả của quá trình áp dụng đồ dùng trực quan trong học tập của các em. Để sử dụng được đồ dùng trực quan, học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức cái cụ thể như quan sát, hình dung, tưởng tượng, lựa chọn các chi tiết cần thiết để trên cơ sở đó, học sinh sử dụng các hình thức hoạt động tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp vận dụng những kiến thức đã biết, soi vào những điều kiện đã cho ở bài tập, tìm ra lời giải, phát hiện ra kiến thức mới theo yêu cầu của bài tập. Nói cách khác học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức cái cụ thể và năng lực tiến hành các hình thức hoạt động tư duy. Ban đầu, khi yêu cầu học sinh sử dụng đồ dùng trực quan như lập bảng so sánh; khai thác kiến thức qua tranh ảnh, lược đồ; vẽ sơ đồcác em rất ngỡ ngàng và cho rằng đây là nhiệm vụ nặng nề, khó có thể hoàn thành. Nhưng khi được giáo viên giải thích rõ mục đích, hướng dẫn phương pháp giải bài tập, các em tỏ ra hứng thú khi thực hiện nhiệm vụ này. Khi giải bài tập các em rất tích cực, cho rằng đó là thử thách thú vị, muốn thử sức để qua đó chứng tỏ năng lực nhận thức của mình. C. KẾT LUẬN Xuất phát từ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về vấn đề sử dụng, khai thác đồ dùng trực quan quy ước trong việc đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn lịch sử, cũng như thực trạng kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan của một số đồng chí giáo viên cò hạn chế và kĩ năng khai thác đồ dùng trực quan của học sinh chưa cao nhất là đối với học sinh lớp 12 ở trường THPT Số 2 Bảo Yên khi học phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954. Đó chính là nguyên nhân tôi mạnh dạn trao đổi về một số kinh nghiệ
Tài liệu đính kèm: