I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Lý do chọn đề tài :
Giáo dục một người không phải chỉ cung cấp cho họ có kiến thức mà còn giúp họ tự trang bị kiến thức cho mình, có được cái nhìn bao quát về cuộc sống để họ có thể tự tin, chủ động hoà nhịp vào cuộc sống đang ngày càng phát triển.
Đã đến lúc chúng ta có cái nhìn mới về giáo dục. Chúng ta không phải là nguời đi tìm và đưa kiến thức cho các em vì như thế các em sẽ trở nên thụ động, chây ì mà các em sẽ là người tự tìm, tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ, dẫn dắt của người thầy – người mẹ thứ hai của các em. Chúng ta – những người thầy, người cô phải làm sao để giúp học sinh cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, giúp các em có hứng thú trong học tập, trong việc tìm hiểu thế giới xung quanh các em.
Với những lý do trên, tôi tập trung nghiên cứu là phải làm thế nào dạy các em học tốt phân môn này mà không nhàm chán . Đồng thời bồi dưỡng cho các em sự tự tin, yêu thích các môn học. Đồng thời tạo nền móng cho việc học tốt môn tiếng Việt và cả những môn học khác. Với những điều kiện đã học hỏi được ở các bạn đồng nghiệp, qua sách, báo, cùng với kinh nghiệm bản thân qua những năm giảng dạy từ lớp Một đến lớp Năm đã giúp tôi có được một số biện pháp trong việc “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong môn TiếngViệt”
mạng ý nghĩa hay tả ngoại hình nhân vật . Qua đó các em rất hứng thú với việc học môn học này. Trong một lớp học, không phải em nào cũng học khá giỏi như chúng ta mong muốn. Bên cạnh những em học tốt cũng có những em học chậm. Giáo viên nên nhẹ nhàng, hướng dẫn các em để các em có sự tự tin trong học tập. Ngoài ra giáo viên cần có sự động viên, khen ngợi kịp thời khi thấy các em tiến bộ dù chỉ là một bước nhỏ. Nếu chúng ta trách phạt thì sẽ tạo nên áp lực lớn ở các em. Càng ngày các em càng thụ động và chui vào " vỏ ốc" của mình, không dám thể hiện bản thân mình, không còn sự chủ động và tích cực được nữa. Tuy nhiên, đã có khen thưởng thì cũng có phạt. Nhưng phạt như thế nào để học sinh nhận ra lỗi và dần sửa chữa được lỗi đó là điều quan trọng. Người giáo viên nên biết sử dụng các biện pháp thay thế. Ở lớp, tôi hướng dẫn để học sinh tự đề ra nội quy của lớp mình. Tôi cho các em tự thảo luận nêu ý kiến để xây dựng bảng nội quy lớp. Sau đó tôi lại cho các em tự đề ra biện pháp xử lí theo sự định hướng của giáo viên. Các em rất hào hứng khi tự mình đề ra nội quy riêng cho lớp mình. Từ hôm đó, các em đã ngoan và chăm hơn, nhiều em ít quậy phá và đã biết chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Có lẽ các em đã ý thức được mình cần tuân thủ những nội quy do chính mình đề ra. Các em là người tự đưa ra nội quy và cách xử lí thì các em sẽ là người cố gắng thực hiện các điều quy định đó. Việc đánh giá HS dựa trên các nguyên tắc sau : 1. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy tất cả khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. 2. Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học. 3. Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất. 4. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. Vào những giờ ra chơi, những khi rảnh rỗi tôi chủ động hỏi chuyện các em, đặc biệt là những em nhút nhát trong lớp, hỏi thăm về thầy cô cũ, về gia đình của các em. Dần dần các em trở nên thân thiết hơn với cô giáo, thích trò chuyện và mạnh dạn bày tỏ nhiều ý kiến hơn. Tôi còn khuyến khích các em viết thư vào hộp thư " Điều em muốn nói " để cuối tuần vào giờ sinh hoạt tôi và các em lại trao đổi cho nhau nghe. Những tâm sự, mong muốn của các em sẽ được truyền tải qua những cánh thư mà có thể là khi trình bày bằng lời các em sẽ gặp một số khó khăn. Đồng thời qua việc viết " Điều em muốn nói" các em còn rèn kĩ năng viết văn của mình . Đây cũng là một trong những việc tôi áp dụng phương pháp dạy học theo mô hình trường Tiểu học mới VNEN . Ngoài ra để phục vụ cho việc tăng cường khả năng giao tiếp , rèn luyện tư duy và trí tưởng tượng phong phú của các em khi viết văn , đồng thời hưởng ứng phong trào " Đọc sách " của nhà trường , lớp tôi còn xây dựng một kệ sách để cho các em thư giãn vào giờ ra chơi với nhiều đầu sách tham khảo và giải trí. 2.3.15 .Chủ động, sáng tạo trong việc lập kế hoạch dạy học Mỗi ngày đến lớp người giáo viên đều chuẩn bị cho mình một kế hoạch bài học đầy đủ. Với sự chuẩn bị chu đáo, chúng ta sẽ là người chủ động dẫn dắt các em trong từng hoạt động. Trong năm học này, theo sự chỉ đạo của BGD và ĐT, tôi đã tiến hành đổi mới trong việc lập kế họach dạy học cho lớp. Vào đầu năm học, tôi tiến hành nắm tình hình học tập của học sinh để có thể lên kế họach dạy học cho phù hợp với tình hình thực tế của lớp. Khi soạn giáo án tôi thực hiện ngắn gọn nhưng trong đó thể hiện rõ từng hoạt động với các hình thức tổ chức như thế nào. Bên cạnh đó, tôi còn chú ý đến việc dạy học theo hướng cá thể hóa theo từng đối tượng học sinh. Tuy việc làm này mới ở bước đầu, còn gặp nhiều khó khăn nhưng cũng đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong quá trình giảng dạy và học tập của các em. Hãy để ý xem trong từng hoạt động chúng ta thực hiện như vậy thì đã phát huy được tính tích cực của học sinh chưa. Nếu chưa thì ta hãy cố gắng đầu tư thêm để tổ chức được một hoạt động để học sinh được tự mình tham gia theo đúng nghĩa của nó. Nếu người giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động thì sẽ giúp cho học sinh chúng ta chủ động, tích cực khi tham gia hoạt động học tập đó . Ví dụ : Bài tập đọc “ Kì diệu rừng xanh” ở HK1 lớp 5( có kế hoạch bài dạy đính kèm) Tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài và luyện đọc theo quy trình mới sáng tạo. Ở quy trình cũ thì các phần luyện đọc đoạn , câu dài , tìm hiểu từ khó hiểu, tìm giọng đọc được tách riêng từng bước nhưng tôi vận dụng kết hợp với nhau cho HS làm việc nhóm 4 tìm từ khó đọc , khó hiểu , câu văn dài , tìm giọng đọc từng nhân vật trong câu chuyện chung một bước thì kết quả cho thấy các em hứng thú học tập hơn vì có sự tương tác nhóm đồng thời tiết kiệm được thời gian học tập để dành được nhiều thời gian hơn cho các bước tìm hiểu bài ở lớp lớn và luyện đọc ở lớp nhỏ. Không chỉ có thế việc thay đổi hình thức tìm hiểu bài cũng giúp học sinh hứng thú hơn khi học môn này .Tùy theo mục tiêu bài dạy , tùy nội dung bài đọc mà tôi thay đổi các hình thức tim hiểu bài như sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở , sử dụng sơ đồ tư duy , sử dụng đồ dùng trực quan Qua đó học sinh có thể hiểu được nội dung bề nổi và bề sâu của bài đọc và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình. Từ đó, học sinh có thể nêu được giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài (với trình độ tiểu học).Mỗi học sinh đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình, đều được phát triển.Học sinh phát hiện, lĩnh hội tri thức một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, với một động cơ nhận thức đúng đắn dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ không phải bị áp đặt. Học sinh có hứng thú học tập, mức độ tự giác tham gia xây dựng bài cao. Ví dụ : Bài tập đọc “ Thái sư Trần Thủ Độ ” ở HK2 lớp 5 2.3.1.6. Kết hợp sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Chúng ta đã quá quen thuộc với cách dạy truyền thống đó là thầy và trò gắn liền với bảng đen và phấn trắng. Nhưng nếu thay bảng đen bằng màn hình, thay dòng chữ và tranh ảnh cứng nhắc bằng những hình ảnh, những đoạn phim ngắn sinh động, phong phú kết hợp với âm thanh vui nhộn thì học sinh của chúng ta sẽ thích thú và bị lôi cuốn đến từng nào? Học sinh tiểu học dễ nhớ nhưng mau quên. Những bài học có điều gì mới lạ sẽ ghi sâu vào tâm trí của các em hơn. Dẫu biết rằng để thực hiện một bài giáo án điện tử không phải là dễ dàng. Chúng ta phải bỏ ra rất nhiều công sức để tìm kiếm tư liệu. Bên cạnh đó có một số thầy cô bị hạn chế về khả năng sử dụng máy vi tính. Tuy nhiên, nếu có điều kiện để thực hiện một bài học bằng giáo án điện tử, tôi tin chắc học sinh của chúng ta sẽ rất thích thú, say mê. Tuỳ vào điều kiện chúng ta có thể thực hiện được nhiều hay chỉ có một giáo án điện tử. Nhưng chỉ cần có một chút thay đổi sáng tạo trong bài học là học sinh của chúng ta sẽ tích cực hơn trong học tập. Nhất là với bộ môn Tiếng việt là một bộ môn hướng dẫn thẩm mĩ , kĩ năng sống cho học sinh qua dạy chữ rèn người thì việc vận dụng GAĐT vào giảng dạy lại càng cần thiết hơn. * Để thực hiện một kế hoạch giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, người giáo viên cần lưu ý: + Lựa chọn bài phù hợp để thực hiện giáo án điện tử. Không phải bài học nào khi ứng dụng công nghệ thông tin cũng mang lại hiệu quả cao. Chúng ta phải biết chọn lọc, xem bài nào có nội dung phù hợp, nếu ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tác động tích cực học sinh đến đâu. Trong các năm học trước và năm học này, tôi cũng đã thiết kế được một số bài học có ứng dụng công nghệ thông tin như: Luyện tập xây dựng đoạn văn trong văn kể chuyện , câu cảm , luyện tập giới thiệu địa phương , động từ Với những bài học này, tôi nhận thấy nếu có ứng dụng công nghệ thông tin thì sẽ giúp học sinh học tập tích cực, chủ động và đặc biệt được mở rộng nhiều kiến thức mà SGK chưa cung cấp. + Giáo viên cần tìm kiếm thông tin ở nhiều nguồn (hình ảnh, đoạn phim,) để bài dạy của mình thêm phong phú. Sử dụng các phần mềm hỗ trợ để bài học thêm sinh động, hấp dẫn. + Không nên sử dụng nhiều hình ảnh động nhiều màu sắc rực rỡ hoặc âm thanh quá lớn gây khó chịu, mất sự tập trung của học sinh. + Một số trang web hữu ích giúp giáo viên truy cập tìm kiếm thông tin phục vụ bài giảng: www.google.com (tìm kiếm thông tin) (tìm kiếm phim) www.ohme-ohmy.com/print_selection.php (hình nền templates) (hình động) www.honoluluzoo.org (trang web về các loài thú) www.seawold.org/animal-info/sound-library (thư viện âm thanh các loài động vật) www.suutap.com/bando/default.asp (bản đồ hành chính Việt Nam) www.basao.com.vn (thư viện bản đồ) www.terragalleria.com (tranh ảnh về phong cảnh đẹp và con người ở khắp nơi trên thế giới, nhất là hình ảnh về Việt Nam rất đẹp) www.vietmultimedia.com (hình ảnh đẹp của Việt Nam) (tài liệu về Huế, kinh thành Huế ) 2.3.1.7 . Thực hiện làm đồ dùng dạy học Là người lớn chúng ta rất thích sử dụng những đồ dùng đẹp. Học sinh của chúng ta cũng thế thôi. Các em cũng rất thích thú khi cầm trên tay mình một đồ dùng nào đó xinh xắn đáng yêu. Việc làm đồ dùng không những giúp chúng ta rất nhiều vào việc tổ chức các hoạt động trên lớp mà còn khơi gợi sự thích thú của học sinh trong học tập. Ngoài việc sử dụng, các em còn biết cần phải giữ gìn bảo quản để có thể được sử dụng nhiều lần. Ở lớp, trong một số giờ ngoại khóa, tôi tổ chức cho lớp cùng làm đồ dùng học tập. Sau khi thực hiện, có những đồ dùng được sử dụng ngay, có những đồ dùng chưa sử dụng thì tôi cho các em treo chung quanh lớp để trang trí. Nhìn lớp học thật sinh động và đẹp. Các em nhìn thấy sản phẩm do chính mình làm ra nên rất thích thú và cùng chung sức giữ gìn, bảo quản. Như vậy chúng ta có thể phát huy được sự sáng tạo của học sinh trong việc học và hành. - Tôi làm những đồ dùng dạy học khuyến khích học sinh cả lớp học tập tích cực như : hoa học tập , bảng xoay trắc nghiệm , bảng mếu cười . Thứ hai ngày 2 tháng 11 năm 2015 Ví dụ : Bộ hoa học tập áp dụng cho HS trắc nghiệm trả lời các câu hỏi phân môn tập đọc Tập đọc Bà cháu Kiểm tra bài cũ Đ , S ? 1. Trước khi gặp cô tiên, ba bà cháu sống như thế nào? A ) Sống rất vui vẻ S B ) Sống đầm ấm S C ) Tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào cũng đầm ấm Đ Ví dụ : Khi bạn đọc diễn cảm hoặc kể chuyện hay , em cũng có thể dùng bảng " Mếu-cười " để nhận xét . Ví dụ : Bộ hoa học tập " Bông hoa kì diệu" áp dụng phương pháp dạy học tích cực "Khăn phủ bàn " Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm : - Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực - Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS - Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS Cách sử dụng : Hoạt động theo nhóm (8 người / nhóm) (có thể 4 người ) - Mỗi em sử dụng một cánh hoa ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa - Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...) - Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề như kể về người thân trong gia đình em : ba , mẹ , ông , bà...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút - Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời - Nhóm trưởng tổng hợp viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô nhụy hoa màu vàng Ba em em 40 tuổi ổituổi tuổi công nhân yêu thương vui vẻ chăm sóc chu đáo cao , hơi gầy 40 tuổi công nhân yêu thương vui vẻ chăm sóc chu đáo cao , hơi gầy 40 tuổi yêu thương cao , hơi gầy chăm sóc chu đáo vui vẻ 2.3.1.8. Tổ chức các hình thức học nhóm, thi đua và trò chơi học tập Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt . Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học . Việc giáo viên nên thường xuyên tổ chức các hoạt động thi đua cá nhân, nhóm, tổ , trò chơi sẽ tăng thêm sự hào hứng, thích thú trong học tập của các em. Và sau mỗi họat động thi đua, giáo viên cần có sự khen thưởng kịp thời để ghi nhận sự cố gắng của các em. Việc khen thưởng cũng có thể thực hiện đơn giản bằng cách tặng hoa, phiếu ghi nhận, thẻ mặt cười , lời khen Việc khen thưởng tuy nhỏ nhưng mang tính khích lệ và khuyến khích các em rất cao. Điểm mới ở đây là tôi vận dụng " Các hình thức dạy học theo mô hình VNEN "để tổ chức các tiết học có hiệu quả : 1. Qui trình 5 bước dạy của giáo viên theo mô hình VNEN : Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh. Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm. Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới. Bước 4. Thực hành. Bước 5. Ứng dụng. 2. 10 Bước học tập của học sinh : + Bước 1. Chúng em làm việc nhóm. Nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập cho cả nhóm. + Bước 2. Em đọc tên bài học rồi viết tên bài học vào vở ô li (lưu ý không được viết vào sách). + Bước 3. Em đọc mục tiêu của bài học. + Bước 4. Em bắt đầu hoạt động cơ bản (nhớ xem phải làm việc cá nhân hay theo nhóm). + Bước 5. Kết thúc hoạt động cơ bản em gọi thầy, cô giáo để báo cáo những gì em đã làm được để thầy, cô ghi vào bảng đo tiến độ. + Bước 6. Em thực hiện hoạt động thực hành: - Đầu tiên em làm việc cá nhân. - Em chia sẻ với bạn ngồi cùng bàn (giúp nhau sửa chữa những bài làm còn sai sót). - Em trao đổi với cả nhóm. Chúng em sửa cho nhau, luân phiên nhau đọc... (lưu ý không làm ảnh hưởng đến nhóm khác). + Bước 7. Hoạt động ứng dụng (gắn liền với gia đình và địa phương). + Bước 8. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo. + Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào bảng đánh giá (nhớ suy nghĩ kĩ khi viết và lưu ý về đánh giá của thầy, cô giáo). + Bước 10. Em đã học xong bài mới hoặc em phải học lại phần nào. * Phương pháp học theo cặp hoặc nhóm: Học theo cặp hoặc nhóm là cách tổ chức các hoạt động theo phương thức hợp tác, thể hiện quan điểm "hướng vào người học" có những tác dụng tích cực sau: - Giúp học sinh phát huy cao độ vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực, tự giác và năng động trong học tập. - Hình thành, phát triển một số kỹ năng xã hội và phẩm chất cần thiết, chuẩn bị cho học sinh biết sống hợp tác. - Luôn đảm bảo tính dân chủ và tính nhân văn sâu sắc trong dạy học. - Chuẩn bị cho học sinh sống trong một thế giới hiện thực, biết chịu trách nhiệm. - Giúp học sinh nâng cao thành tích học tập của cá nhân mình và tập thể lớp, tạo cơ hội cho các em bổ sung kiến thức cho nhau cũng như tự điều chỉnh những hiểu biết chưa chính xác phù hợp với bản thân. - Đặc biệt lưu ý cách dạy học " Cá thể hoá " để chia nhóm cho phù hợp . * Vài điều cần thiết khi chia nhóm: - Thành lập nhóm từ 2 hoặc 8 thành viên. - Thường xuyên thay đổi cơ cấu nhóm, tránh giữ các nhóm ổn định suốt năm học. - Cho mỗi học sinh trong nhóm luân phiên nhau đảm trách vai trò nhóm trưởng. - Tạo điều kiện cho mỗi thành viên có cơ hội thực hành đóng góp. - Nhiệm vụ của mỗi nhóm phải thực hiện có độ khó và tầm quan trọng như nhau so với yêu cầu, mục tiêu của giờ học. * Chú ý: Khi giao việc cho nhóm, giáo viên cần phải trình bày nội dung hoạt động một cách rõ ràng và ấn định thời gian làm việc cụ thể. Tâm lí của giáo viên thường sợ mất thời gian. Khi gặp một bài tập khó, một vấn đề phức tạp mà giáo viên nghĩ rằng vượt quá sức học sinh thì giáo viên thường chủ động nêu hướng giải quyết hoặc trả lời dùm các em. Có giáo viên lại sa đà vào giảng giải. Chúng ta hãy mạnh dạn giao việc cho các em để các em tự thực hiện, khi nào thấy các em thật sự gặp khó khăn, giáo viên hãy là người hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh đi đúng hướng. Đối với những hoạt động yêu cầu mức độ cao, một học sinh không đủ sức để thực hiện, giáo viên hãy tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm nhỏ. Như vậy các em sẽ được thảo luận, được trình bày ý kiến, được tự mình tìm tòi ra vấn đề một cách chủ động. Trong giờ học, tôi thường xuyên tổ chức cho các em học theo nhóm, trao đổi thảo luận với nhau. Các em hiếu động giờ trở nên nhanh nhẹn hơn; các em e dè, nhút nhát đã tự tin, mạnh dạn trao đổi với các bạn và trình bày ý kiến trước lớp. Tôi biết trong số những em hiếu động có em Sang , em Quân , em Nguyên rất thích đóng kịch nên tôi tạo điều kiện cho các em đóng kịch trong giờ kể chuyện. Những câu chuyện các em trình bày trước lớp bằng cách sắm vai dù chưa đạt về mặt hình thức hay nội dung nhưng các em rất hăng say, thích thú và sáng tạo khi thực hiện điều đó. Các em diễn với vẻ nhí nhảnh vốn có nên càng tạo được không khí vui tươi cho cả lớp. Tôi đánh giá cao điều đó. Dù chưa đạt ở mặt nào đó nhưng tôi nhìn thấy ở các em có sự tiến bộ, đã tham gia tích cực, sáng tạo trong các hoạt động học tập. * Phương pháp trò chơi: Trò chơi là cách thức giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh bằng cách vận dụng những trò chơi nhằm tạo cơ hội cho các em củng cố hay phát triển những kiến thức hoặc kỹ năng ngôn ngữ của mình. Thông qua các trò chơi học sinh được làm việc cá nhân hoặc làm việc trong nhóm, trong lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. - Mục đích của trò chơi phải hướng đến củng cố hay phát triển kiến thức, rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cụ thể của từng bài hay từng nhóm bài. - Hình thức trò chơi cần đa dạng nhằm thay đổi hình thức hoạt động học tập của học sinh, giáo viên nên chọn trò chơi phù hợp với trình độ phát triển của học sinh ở từng cấp lớp. Mức tập trung chú ý của học sinh tiểu học thường không cao. Các em sẽ dễ mệt mỏi khi học tập liên tục trong một thời gian dài. Hãy thay đổi không khí lớp bằng cách cho các em thư giãn bằng một bài hát, một trò chơi nho nhỏ. Bên cạnh đó, chúng ta có thể lồng ghép vào bài học một hoạt động trò chơi học tập phù hợp. Học mà chơi - chơi mà học. Chơi nhưng lồng ghép vào đấy kiến thức của bài học sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Hãy nhìn vào đôi mắt sáng, lanh lợi của học sinh khi được tham gia vào một hoạt động trò chơi của bài học, chúng ta sẽ thấy các em nhanh nhẹn, tích cực hẳn lên. * Ví dụ : Môn học vần lớp 1 : Trò chơi: “ Hái hoa ” hoặc " Hái táo " a. Mục tiêu: Rèn luyện khả năng nhanh nhạy trong việc ghép vần và củng cố được các vần đã học . b. Hiệu quả: Học sinh hứng thú học tập , dễ nhớ âm vần . Môn học vần lớp 1 : Trò chơi " Bông hoa kì diệu" Tìm tiếng ghép với chữ ê a. Mục tiêu: Rèn luyện khả năng nhanh nhạy trong việc ghép tiếng và củng cố được các âm đã học m n l k n d b. Hiệu quả: Học sinh hứng thú học tập , dễ nhớ âm vần để ghép từ nhanh . Môn tập làm văn lớp 2 : Trò chơi: “ Xếp đúng tranh " a. Mục tiêu: - HS xếp được đúng các tranh theo thứ tự đúng với trình tự câu chuyện " Gọi bạn ". b. Hiệu quả: Học sinh hứng thú học tập , dễ nhớ câu chuyện , dễ thuộc bài thơ . Môn luyện từ và câu : Trò chơi: “ Xếp cánh hoa " a. Mục tiêu: Giúp học sinh : Ôn lại kiến thức tìm từ chỉ sự vật ,chỉ hoạt động , trạng thái . b. Hiệu quả: Học sinh hứng thú học tập , dễ tìm từ , củng cố được vốn từ đã học . Các từ hoạt động , trạng thái Các từ chỉ sự vật - Lưu ý : Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn chính tả ở các bài : tìm các chữ bắt đầu g hay gh- ở bài 2 sách TV2 trang 19 ;tìm chữ có iê , yê ở bài 2 sách TV2 trang 37 chỉ cần thay đổi yêu cầu ghi trên nhị hoa. Khi kết thúc trò chơi, để khắc sâu kiến thức của bài, giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt câu với một vài từ tìm được và chuẩn bị sẵn các phiếu khen thưởng để động viên các em. 2.4 Đối với trò : - Học sinh phải có thói quen chuẩn bị trước bài. Vì có chuẩn bị bài việc học mới đạt kết quả tốt. Điều này rèn luyện được phẩm chất tư duy cho học sinh. - Học sinh phải có tinh thần trách nhiệm trước nhóm, trước giáo viên. Các em phải biết kiểm tr
Tài liệu đính kèm: