1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá là một trong những yếu
tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của ngành Giáo dục và Đào tạo ở nước ta
hiện nay. Chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo đến năm 2020 đã khẳng định
một trong những giải pháp quan trọng để phát triển giáo dục là “Đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục”.
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, từ chỗ quan
tâm tới việc HS học được gì đến chỗ quan tâm tới việc HS học được cái gì qua việc
học. Để có được điều đó, trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đã thực
hiện nhiều công việc trong đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng PTNL
của người học. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta : "Tiếp tục đổi
mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học"
(chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo Quyết
định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ).
Thực hiện chủ trương trên, trong những năm qua Sở Giáo dục và Đào tạo
Nghệ An đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho giáo viên cốt cán các nhà trường ở hầu
hết các môn học nhằm đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học và KTĐG theo
định hướng PTNL học sinh thông qua việc xây dựng và dạy học theo chủ đề. Tuy
nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại
trường và tham khảo trường bạn, tôi thấy việc triển khai phương pháp dạy học theo
hướng PTNL học sinh chưa nhiều, chưa phổ biến. Nhìn chung các bộ môn mới chỉ
tiến hành dạy học mỗi năm 2 chủ đề và 4 tiết nghiên cứu bài học theo quy định,
nên tôi thiết nghĩ cần có công trình nghiên cứu trình bày cụ thể, hệ thống về dạy
học theo định hướng PTNL trong một khóa trình để nâng cao chất lượng dạy học.
Mặt khác các chủ đề được xây dựng trong thời gian vừa qua chủ yếu là theo
các chương/bài được xây dựng trong SGK, nội dung kiến thức còn dàn trải hàng
ngang mà chưa đi sâu, xuyên suốt một giai đoạn lịch sử, một lĩnh vực nên về cơ
bản không có cái “mới”, cái “khác” trong chủ đề so với nội dung bài học, chưa
kích thích được sự tò mò, khả năng tổng hợp của người học. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, bản thân tôi nhận thấy nếu tổng hợp được kiến thức của từng
chương/bài lại và đi sâu vào một lĩnh vực của các chương/bài, mổ xẻ nó theo chiều
sâu thì HS sẽ hứng thú học hơn và phát triển được các năng lực cần hình thành.
Với những lí do trên, tôi chọn đề tài: Vận dụng dạy học theo định hướng
phát triển năng lực người học với chủ đề Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa
đầu thế kỉ XIX làm đối tượng nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học của
bản thân, từ đó đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới căn bản, toàn
diện của ngành giáo dục nước nhà
c Lâm. + Ngôi chùa không chỉ là nơi thờ cúng mà còn là một trung tâm VH, là hình tượng về chân - thiện - mĩ đối với mọi người dân, trở thành nơi lưu giữ và phổ biến VH, tri thức cho dân chúng. - Thời Lê sơ Phật giáo không phát triển vì: + Nho giáo được nâng lên vị trí độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị. Nhà nước coi Nho giáo là công cụ để quản lí đất nước. + Nhà nước thời Lê sơ không chú trọng Phật giáo, hạn chế xây dựng chùa chiền, các nhà sư ít được trọng dụng, nhà Lê sơ tuyển chọn quan lại chủ yếu qua khoa cửnên số người theo đạo Phật giảm dần. + Với việc nhà nước thời Lê sơ nâng Nho lên vị trí độc tôn, nhằm quản lí đất nước chặt chẽ hơn, nên Phật giáo không có điều kiện phát triển như thời Lý, Trần. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 2. Lí giải sự phát triển thăng trầm của hệ tư tưởng Nho giáo ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử từ thế kỉ X- XIX. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - TK X-XIV cùng với sự phát triển của chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, Nho giáo dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai cấp phong kiến thống trị. Tuy nhiên trong nhân dân ảnh hưởng của Nho giáo còn ít, bởi vì nó đề cao đạo đức xã hội, đưa ra những quy định khắt khe về chuẩn mực đạo đức, chủ trương duy trì trật tự phong kiến và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị - Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn vì do chính sách của nhà nước. Lúc này nhà nước quân chủ chuyên chế đạt đến độ hoàn thiện, tính tập quyền trung ương cao nhất. Nhà Lê đã tìm cách hạn chế Phật giáo, độc tôn Nho giáo. - Thế kỉ XVI- XVIII, do sự suy yếu, bất lực của nhà nước; sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, Nho giáo từng bước suy thoái, mất địa vị độc tôn. - Thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn được thiết lập trong bối cảnh đất nước khủng hoảng về mọi mặt nên tăng cường tính chuyên chế ở mức độ cao vì vậy đã chủ trương độc tôn Nho giáo. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 3. Mục đích của việc nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu, nhà Lê sơ cho lập bia tiến sĩ? 20 - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Năm 1070 Vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu nhằm: + Thờ các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho như Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, Thất thập nhị hiền. + Văn Miếu còn mang chức năng một trường học hoàng gia, nơi dạy các Thái tử. + Thể hiện sự quan tâm, tôn vinh của Nhà nước đến giáo dục và lí tưởng xây dựng nền trị đạo nhân nghĩa trên đất nước ta - Năm 1484 vua Lê Thánh Tông cho lập bia tiến si ̃taị Văn Miếu nhằm: + Khuyến khích và phát huy truyền thống hiếu hoc̣ + Tôn vinh nhân tài + Nhắc nhở người đỗ đaṭ phải có trách nhiêṃ xây dưṇg đất nước. + Lưu danh, làm tấm gương cho hâụ thế noi theo Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 4. Hiện nay tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn thờ những vị vua nào? Vì sao lại thờ những vị vua đó? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện còn thờ những vị vua: + Lý Thánh Tông: là vị vua có công khai sáng nền giáo dục nho học, là người đưa ra quyết định cho lập Văn Miếu (1075)... + Lý Nhân Tông: là vị vua mở mang nền giáo dục nho học và xây dựng Quốc Tử Giám. (1076)... + Lê Thánh Tông: là vị vua tổ chức được 12 khoa thi hội, năm 1484 quyết định dựng bia ghi tên tiến sĩ, là người tạo dựng nền giáo dục và thi cử thịnh vượng của nước Đại Việt thời phong kiến. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 5. Tại sao giáo dục nước ta thế kỉ X-XV lại phát triển? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Do nhu cầu xây dựng nhà nước và nâng cao dân trí đã thúc đẩy các nhà nước đương thời quan tâm đến giáo dục, đến việc đào tạo nhân tài - Sự phát triển về các mặt kinh tế, chính trị của các triều Lý, Trần, Lê sơ tạo tiền đề cho các mặt giáo dục, văn học, nghệ thuất phát triển. 21 - Nhà nước có nhiều hình thức khuyến khích, động viên người học tập, thi cử như dựng bia ghi tên những người đỗ Tiến sĩ và được “vinh quy bái tổ”, những người đỗ đạt đều được bổ dụng làm quan - Lúc bấy giờ học hành, thi cử đỗ đạt là con đường để làm quan, để được “vinh danh” và kính trọng của nhiều người - Do tinh thần hiếu học của nhân dân ta - Do ảnh hưởng của giáo dục Nho học Trung Hoa... Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 6. Tại sao lại có sự khác nhau về nội dung của nền văn học nước ta ở thế kỉ X-XV so với thế kỉ XVI-XIX? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Có sự khác nhau về nội dung của nền văn học trong 2 giai đoạn là vì bối cảnh lịch sử có sự thay đổi: + Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, văn học thể hiện ý thức dân tộc cao độ, đặc biệt là “Hào khí Đông A” thời Trần trở thành nguồn cảm hứng sáng tác rất lớn. Đồng thời thể hiện trách nhiệm cá nhân trong công cuộc xây dựng, bảo về đất nước. + Từ thế kỉ XVI trở về sau, chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy yếu, tình trạng chia bè phái, cát cứ nổi lên, chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân cực khổ. Văn học đã phản ánh hiện thực khách quan, nêu lên khát vọng của nhân dân. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 7. Nguyên nhân nào dẫn đến những thay đổi tình hình tư tưởng, tôn giáo, giáo dục, văn học ở nước ta trong các thế kỉ XVI-XVIII so với thế kỉ thế kỉ X-XV? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Do chế độ phong kiến suy yếu và tác động bởi nền kinh tế hàng hóa nên tôn ti trật tự phong kiến không còn như trước. - Tác động của phát kiến địa lí dẫn đến sự du nhập của tôn giáo mới và chữ quốc ngữ. - Do biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, chế độ phong kiến suy yếu nên giáo dục không được như trước, văn học chữ Hán cũng mất đi nguồn đề tài trong sáng tác, văn học chữ Nôm phát triển nói lên tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 8. Vì sao thế kỉ XVI-XVIII dòng văn hóa dân gian lại phát triển nở rộ? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của người dân trong hoàn cảnh xã hội 22 rối ren, kinh tế sa sút.. - Tác động của những biến động xã hội trong giai đoạn này cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, giao lưu văn hóa rộng rãi... - Khả năng sáng tạo, tinh thần lạc quan của người Việt... - Sự suy thoái của văn hóa chính thống là cơ hội cho VH dân gian phát triển. - Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc... Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 9. Nguyên nhân dẫn tới sự phát triển của văn hóa ở nước ta thế kỉ X-XV? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Sự phát triển toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế...của các triều đại Lý, Trần, Lê sơ đã tạo tiền đề cho VH phát triển. - Các triều đại phong kiến đều có những chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các hoạt động này phát triển. - Sự sáng tạo của nhân dân ta trong lao động và sản xuất, trong đấu tranh nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị VH của dân tộc. - Tác động của các yếu tố VH bên ngoài, chủ yếu là VH Trung Hoa. - Sự kế thừa những yếu tố VH của người Việt cổ trong nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời * Câu hỏi, bài tập mức độ vận dụng. * Câu hỏi trắc nghiệm Câu 1. Điểm khác nhau về tư tưởng, tôn giáo thời Lê sơ so với thời Lý, Trần là A. Nho giáo nâng lên vị trí độc tôn. B. Nho giáo và Phật giáo có vị trí ngang nhau. C. Phật giáo nâng lên vị trí độc tôn. D. Đạo giáo được xem là quốc giáo. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: A Mức không tính điểm: HS chọn các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 2. Thầy Chu Văn An được xã hội trọng vọng, tôn thờ trong Văn Miếu bởi thầy là người A. dạy giỏi. B. đỗ Thái học sinh. C. có tài năng và đức độ. D. dạy cho thái tử. Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: C Mức không tính điểm: HS chọn các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 3. Điểm khác nhau về văn học nước ta thế kỉ XVI-XVIII với thế kỉ X-XV là 23 A. Văn học dân gian phát triển khá rầm rộ. B. Văn học chữ Nôm phát triển. C. Văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển. D. Văn học chữ Hán phát triển. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: A Mức không tính điểm: HS chọn các đáp án khác, hoặc không trả lời * Câu hỏi tự luận Câu 1. Phân tích những mặt tích cực và hạn chế của nền giáo dục nho học nước ta thời phong kiến độc lập. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Tích cực: + Các nhà nước đương thời đều quan tâm đến giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển... + Giáo dục thời kì này đã đào tạo ra nhiều trí thức tài giỏi cho đất nước như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư MạnhNhiều trí thức đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng đất nước. + Bên cạnh đào tạo ra nhiều trí thức tài giỏi thì giáo dục thời kì này còn làm cho số người đi học tăng lên, góp phần nâng cao trình độ dân trí... - Hạn chế: + Giáo dục Nho học chỉ dạy chủ yếu các môn khoa học xã hội, xem nhẹ các kiến thức khoa học tự nhiên, hạn chế sự phát triển kĩ thuật phục vụ sản xuất nên không tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 2. Phân tích điểm giống nhau cơ bản của giáo dục nước ta qua các triều đại từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Nội dung giáo dục chủ yếu là Nho học, đề cao đạo đức xã hội qua các sách Tứ thư, Ngũ kinh và phương pháp học thuộc lòng theo kiểu “tầm chương trích cũ” - Thi cử được tổ chức chặt chẽ. Giáo dục và khoa cử đều được các triều đại tổ chức, là hình thức chủ yếu để tuyển chọn quan lại. - Giáo dục thời kì này có tác dụng nâng cao dân trí, đào tạo ra nhiều trí thức tài giỏi cho đất nước, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. - Tuy nhiên giáo dục thời kì này còn xem nhẹ các kiến thức khoa học tự nhiên, hạn chế sự phát triển kĩ thuật, không tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS chọn các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 3. Phân tích những thay đổi về tình hình tư tưởng, tôn giáo, giáo dục, văn học trong các thế kỉ XVI-XVIII với thế kỉ X-XV. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: 24 + Về tư tưởng, tôn giáo: Nho giáo từng bước suy thoái, Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện khôi phục vị trí của mình nhưng không được như thời Lý, Trần. Đạo thiên chúa được du nhập vào nước ta... + Về giáo dục: Tiếp tục mở các khoa thi nhưng dưới triều vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng ngoài chất lượng giáo dục suy giảm, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều, thời vua Quang Trung đưa văn thơ Nôm vào nội dung thi cử... + Về văn học: Văn học chữ Hán mất dần vị trí vốn có của nó, văn học chữ Nôm phát triển, văn học dân gian phát triển khá rầm rộ, đa dạng về thể loại... Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 4. Qua quan sát một số công trình kiến trúc của nước ta TK X-XIX, hãy phân tích nét độc đáo về nghệ thuật kiến trúc Việt Nam thời kì này. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Nghệ thuật kiến trúc thời kì này chịu ảnh hưởng của các tôn giáo. Các công trình thường được xây ở những nơi có phong cảnh đẹp, gắn bó với núi, sông, hồ, - Kiến trúc các ngôi chùa là các ngôi tháp, tiêu biểu như: Chùa Trấn Quốc (Hà Nội), chùa Thiên Mụ (Huế), tháp chùa Phổ Minh (Nam Định), - Mái chùa thường uốn cong, lợp bằng ngói, các góc của mái chùa đều có đầu đao xây cong lên hình lưỡi đao hay hình cái đuôi chim phượng. Hệ thống bộ mái của chùa chiếm 2/3 công trình như chùa Một Cột (Hà Nội), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) - Rồng là biểu tượng của sự cao quý, tượng trưng cho sức mạnh vũ trụ nên thường được các vua chúa sử dụng. - Những họa tiết hoa văn độc đáo như: rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bông cúc nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen nở,... thường được sử dụng trong các công trình kiến trúc của Việt Nam. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 5. Phân tích tính dân tộc sâu sắc của văn hóa Đại Việt từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: a. Tư tưởng, tôn giáo: - Tư tưởng, tôn giáo: tiếp nhận Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo từ bên ngoài, nhân dân Đại Việt hoà lẫn với tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng truyền thống của mình để tạo nên lôi sống và cách ứng xử riêng... + Giai cấp phong kiến thống trị đã tiếp nhận Nho giáo, xem nó là hệ tư 25 tưởng của mình. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thu ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ, nhất là về chính trị - đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống. + Để vượt ra khỏi sự ràng buộc của các ảnh hưởng từ phương Bắc, Phật giáo được đề cao, được giai cấp thống trị thời Lý, Trần và nhân dân tôn trọng. Phật giáo nước ta không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục. Tầng lớp tăng lữ đi sâu hơn vào Phật học, dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm. + Thời Lý, Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Đạo giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa mang tính chất “Tam giáo đồng nguyên”. - Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào nước ta không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau, làm cho cả hai phía đều có những biến hóa nhất định, như Nho giáo không hạ thấp vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở nước ta rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thần linh có mà người thật cũng có. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam. b. Văn học: - Từ thời Trần văn học dân tộc ngày càng phát triển, hàng loạt bài thơ, bài hịch, bài phú nổi tiếng như: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng Giang Phú, Bình Ngô đại cáocùng hàng loạt tập thơ, truyện, kí ra đời thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, đánh dấu sự hình thành văn học dân tộc. - Từ thế kỉ XI - XII, trên cơ sở chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm - chữ viết riêng của dân tộc. TK XV cả văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển với sự xuất hiện của hàng loạt tập thơ của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ca ngợi đất nước phát triển... - Từ thế kỉ XVI văn học chữ Nôm phát triển mạnh, văn học dân gian nở rộ c. Nghệ thuật: - Nghệ thuật kiến trúc nở rộ với những nét độc đáo, tinh xảo bao gồm kiến trúc Phật giáo và Nho giáo. Đặc biệt thời Lý, Trần có bốn công trình nghệ thuật được đánh giá là “An Nam tứ đại khí” của dân tộc... - Nghệ thuật điêu khắc tinh tế, độc đáo với nhiều loại hình họa tiết, hoa văn độc đáo như hình rồng trơn mình cuộn trong lá đề, bệ chân cột hình hoa sen nở, phù điêu nổi hình cô tiên, vũ nữ múa... mang đậm bản sắc của người Việt. - Các loại hình nghệ thuật dân gian ra đời sớm và ngày càng phát triển, trong đó múa rối nước là một loại hình nghệ thuật đặc sắc. Các nghệ nhân sáng tạo nhiều loại hình nhạc cụ: trống cơm, sáo tiêu, đàn cầm, đàn tranh, cồng chiêng, được sử dụng với những trò chơi lễ hội dân gian đấu vật, đua thuyền, đá cầu. d. Khoa học – kĩ thuật: 26 - Các bộ lịch sử, địa lí của nhà nước và tư nhân được biên soạn với nội dung ca ngợi lịch sử lâu đời, truyền thống tốt đẹp, khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc, cảnh đẹp của quê hương, đất nước ... - Người Việt tiếp nhận các thành tựu kĩ thuật bên ngoài, chế tạo được súng thần cơ, đóng được thuyền chiến có lầu, Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời * Câu hỏi, bài tập mức độ vận dụng cao. * Câu hỏi tự luận Câu 1. Rút ra bài học cần kế thừa và đấu tranh đối với hệ tư tưởng Nho giáo còn tồn tại trong xã hội ngày nay. Đánh giá sự tiếp nhận các tôn giáo bên ngoài vào nước ta thời kì phong kiến độc lập. - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: * Bài học cần kế thừa và đấu tranh: - Cần kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo vì nó giúp tạo nên tôn ti, trật tự trong gia đình, xã hội, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức cho con người; giáo dục trách nhiệm đối với gia đình, đất nước... - Đối với những quan điểm bảo thủ, lạc hậu như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tam tòng...thì chúng ta nên đấu tranh loại bỏ vì nó kìm hãm sự phát triển của xã hội. * Đánh giá sự tiếp nhận các tôn giáo bên ngoài vào nước ta: - Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. - Người Việt đã tiếp thu các tôn giáo từ bên ngoài và việt hóa nhiều yếu tố cho phù hợp với VH truyền thống, nhằm làm phong phú, đa dạng nền VH dân tộc. Mức tương đối đầy đủ: HS trả lời đúng một số ý nhưng chưa đầy đủ Mức không tính điểm: HS làm các đáp án khác, hoặc không trả lời Câu 2. Giáo dục khoa cử Nghệ An từ TK X đến nửa đầu TK XIX đã có những đóng góp như thế nào cho đất nước? Em có suy nghĩ gì về tinh thần vượt khó học tập của các sĩ tử xứ Nghệ ? - Hướng dẫn trả lời: Mức độ đầy đủ: - Cùng với sự phát triển của Nho học Việt Nam thì truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, khoa bảng của người Nghệ luôn được nuôi dưỡng và phát huy sớm. - Nghệ An là vùng đất xa kinh kì, thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Mặc dù vậy người Nghệ An vẫn ham học, học để thoát nghèo và làm người: Nếp sống trong học tập của học trò xứ nghệ có thể gọi là “khổ học” và đã trở thành nếp sống đầy bản sắc địa phương. Đây là điều kiện để người xứ Nghệ vươn lên đạt những thành tích đáng kể về khoa bảng ở các TK sau. 27 Mở đầu cho truyền thống khoa bảng là Bạch Liêu (Yên Thành) đỗ Trại Trạng Nguyên năm 1266. Ông được xem là vị “tổ khai khoa” của đất Nghệ. Trong tiến trình lịch sử khoa cử, các sĩ tử Nghệ An đã có hàng trăm người chiếm vị trí cao trong các khoa thi. Trong 82 bia văn miếu (Hà Nội) ghi danh sách những người đậu đạt (từ năm 1442-1780) thì có tới 57 bia có tên người Nghệ An hoặc Hà Tĩnh. - Dưới triều Lê sơ ở Nghệ An nhiều người đỗ đạt, được bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng trong triều như Thái Tất Tiến (Hưng Nguyên) làm quan đến chức Tham chính; Cao Quýnh (Diễn Châu) làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ; Đặng Minh Bích (Đô Lương) làm quan đến chức thượng thư. Là vùng đất có truyền thống hiếu học, khoa cử qua nhiều triều đại, thế nên Nghệ An đã được chọn là một địa điểm đặt trường thi. Trường thi Hương Nghệ An được lập từ đời Lê Thái Tông (1438), nổi tiếng là nơi để nhà nước quân chủ lựa chọn nhân tài. Tóm lại, trong thời kì phong kiến độc lập, xứ Nghệ đã đào tạo cho chính quyền phong kiến một đội ngũ quan lại có đức, có tài, giữ những vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực góp phần làm rạng danh lịch sử dân tộc. - Suy nghĩ của bản thân về tinh thần vượt khó học tập của các sĩ tử xứ Ng
Tài liệu đính kèm: