Trong khâu kiểm tra bài cũ, tôi không chỉ nhất nhất kiểm tra nội dung kiến thức của bài học trước mà tôi còn kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của HS cho bài học mới. Những câu hỏi kiểm tra bài cũ (sự chuẩn bị bài mới) có thể chỉ là đọc thuộc lòng một khổ thơ, một đoạn thơ hoặc nêu lên một hình ảnh trong bài thơ mà em mới phát hiện được (đối với tác phẩm thơ); có khi là về thể loại, là một nhât vật trong tác phẩm hay tóm tắt cốt truyện (đối với tác phẩm văn xuôi). Đây cũng là một cách thu hút sự chú ý, tìm hiểu của HS vào bài học ngay từ bước đầu. Nhưng phần lớn tôi thường đặt câu hỏi về quá trình thai nghén của tác phẩm, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, nhất là những tác phẩm có sự đặc biệt về hoàn cảnh ra đời.
t thực trạng “đau lòng” là có HS đã hiểu sai, hiểu lệch, thậm chí xuyên tạc, bóp méo tác phẩm văn học để hiểu theo một cách dung tục học như bài làm của bạn học sinh lớp 10A PTTH Phú Nhuận, có đoạn đã viết:"Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng". Qua đó ta thấy tên khách họ Hoàng thật là tàn nhẫn, hắn hôn Thúy Kiều đã rồi lại bắt Kiều hôn lại, làm cho Kiều ngày càng biến thành gái lầu xanh chuyên nghiệp, muốn ngóc đầu lên cũng không nổi....". Hay có đề văn "Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về việc Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta tác phẩm Kiều". Một bạn lớp 11 PTTH Cái bè, đã viết: "... Nguyễn Du là lão tiền bối của chúng ta. Mặc dù tiền bối đã sớm ra đi vào một chiều gió lạnh, nhưng vẫn làm chấn động cả giới hậu bối của chúng ta, qua bí kíp võ công "Vương Thúy Kiều" hay còn gọi là "Đoạn Trường Thất Thanh". Bằng chứng là qua các kỳ thi, pho bí kíp này lại xuất hiện và làm "thất điên bác đảo" cả giới "hậu bối" chúng ta ...". các em đã vô tình hay cố ý biến tác phẩm văn chương thành một tiểu phẩm hài để bàn tán, bình phẩm và gắn cho nó một ý nghĩa khác. Nhiều tác phẩm văn học bất đắc dĩ trở thành một bài lịch sử cho HS tìm hiểu như trường hợp HS Nguyễn Phi Khanh trường THPT Việt Đức Hà Nội. Trong kỳ thi học sinh giỏi các trường không chuyên của Hà Nội năm 2005. Đề bài yêu cầu: Giới thiệu vẻ đẹp của tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, thì trong bài văn của mình em cho rằng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm không hay, khó hiểu, không hấp dẫn với học sinh: “Em không thích tác phẩm này vì nó quá cứng nhắc, khó hiểu. Em đọc xong mà không hề có một chút xúc động hay xót thương, như vậy là lỗi tại em hay tại nhà văn không truyền tải được đến người đọc?... Chúng em và các cô - tức là những người ra đề - là hai thế hệ rất khác nhau; các cô không hiểu chúng em thì trái lại, chúng em cũng không hiểu những tác phẩm viết về cái thời các cô cũng chỉ bé như bọn em bây giờ...”. Nhưng điều đó lại làm cho một số người tỏ ý tán thành. 4. Từ những thực trạng trên, tôi thiết nghĩ rằng, để tìm lại vị trí “xứng đáng” cho môn Ngữ văn, bồi dưỡng tình yêu văn cho HS, trước hết người giáo viên vừa phải tạo được tâm thế cho mình, vừa phải đưa lại tâm thế cho học trò. Nhất là ở một trường dân lập, đối tượng học sinh phần lớn là đều có lực học yếu, các em bị mất căn bản từ cấp dưới. Nhiều học sinh không biết diễn đạt cho gãy gọn một câu văn. Thậm chí có những học sinh chưa biết triển khai bài văn cho đúng bố cục, giáo viên cho ghi như thế nào thì các em học thuộc lòng rồi viết lại nguyên như vậy, các em không thể triển khai từ một ý thành một đoạn văn. Cuối cùng, cô lại chấm văn của cô. Trong giờ học văn, nhất là vào các tiết 4, 5 nhiều học sinh uể oải, ngao ngán, không muốn chép bài. Như vậy để tạo cho các em “một tâm thế” để đón nhận một giờ học văn có ý nghĩa là một điều rất quan trọng. Với kinh nghiệm giảng dạy còn “mỏng”, tôi xin được mạnh dạn đưa ra một số biện pháp trong việc “tạo tâm thế” cho học sinh trong tiết đọc - hiểu văn bản Văn học, hy vọng sẽ góp phần bổ sung đa dạng phương pháp dạy học tích cực cho bộ môn. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh các khối, lớp mà tôi được phân công trực tiếp giảng dạy. 2. Phạm vi nghiên cứu: Chương trình SGK Ngữ văn lớp 10, lớp 11, lớp 12 cải cách (NXB GD năm 2006). IV. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học trên lớp, giao bài tập, củng cố bài học, hướng dẫn HS chuẩn bị bài, kết hợp với kiểm tra, đánh giá). V. Bố cục của sáng kiến kinh nghiệm: Phần A: §Æt vÊn ®Ò Phần B: Gi¶i quyÕt vÊn ®Ò Chương I: Những vấn đề chung I. Quan niệm về vấn đề “tạo tâm thế” II. Những ưu điểm và hạn chế Chương II: Một số biện pháp “tạo tâm thế” trong giờ đọc - hiểu văn băn Văn học ở trường THPT. Phần C: Kết thóc vÊn ®Ò B. GI¶I QUYÕT VÊN §Ò Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. Quan niệm về biện pháp “Tạo tâm thế”: “Tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học thực chất là việc giáo viên tạo cho HS một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái, một xúc cảm, hứng thú và một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn học cụ thể. Vì Văn học là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ văn là học cách khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội và của con người, cái đẹp của sự sáng tạo nên không chỉ dùng lí trí mà quan trọng hơn là phải giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn và sự rung động của trái tim. Để tạo được tâm thế cho trò thì trước hết giáo viên phải biết tạo cho mình một tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà đồng với học trò. Muốn vậy, giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình thức “tạo tâm thế” phù hợp, vừa phải biết nén lòng quên đi những vướng bận lo toan, nhọc nhằn của cuộc sống đời thường, giấu đi những giọt nước mắt, những nỗi buồn. Bước lên bục “văn” với các em là chúng ta phải có cảm giác bước vào một thế giới hoàn toàn mới lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng liêng, cao cả là người đưa đường, mở cửa dẫn các em hoà vào vương quốc của cái đẹp, để được cười, được khóc không chỉ cho mình mà cho cả dân tộc mình, cho những thân phận, số phận trong tác phẩm văn chương giống như những lời thơ của tác giả Việt Nga: “Giờ văn nụ cười, nước mắt Nghẹn ngào, thanh thản đan xen Thầy đau nỗi niềm dâu bể Trò day dứt cùng thế nhân”. Như thế trong suốt giờ Văn, người thầy phải biết quên mình để sống với Văn, với học trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. Người dạy Văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là một nghệ sĩ trên bục giảng. Thông thường trong một tiết đọc - hiểu văn bản, không phải lúc nào HS cũng có thể tập trung chú tâm vào bài học, đặc biệt là những tác phẩm dài và khó. Song tôi đã thu hút, hướng HS vào bài học bằng cách kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, đặt ra những câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh mở rộng vấn đề trong bài học, phát huy khả năng sáng tạo của HS qua giao bài tập, trực tiếp kiểm tra, đánh giá II. Những ưu điểm và hạn chế: 1. Ưu điểm: - Ưu điểm lớn nhất của biện pháp “tạo tâm thế” là đưa lại không khí học tập sôi nổi cho lớp, giúp HS có tâm lí thoải mái, hào hứng với bài học, hâm nóng lại tình yêu văn, yêu cái đẹp có giá trị nhân sinh và dần dần hoàn thiện nhân cách. Đồng thời giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách hiệu quả sau giờ đọc - hiểu văn bản. - Việc “tạo tâm thế” cũng là điều kiện để giáo viên trau dồi trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, là cách thức để phát huy tính tích cực, chủ động và năng lực tìm tòi sáng tạo của HS trong việc cảm thụ tác phẩm văn học, phát hiện bồi dưỡng, phát triển năng khiếu thiên bẩm, nghệ thuật đàm thoại, ứng xử trong giao tiếp, khả năng sáng tác.của HS. Từ đó giúp các em hiểu bài hơn, bồi đắp niềm hứng thú, tình yêu, sự say mê đối với môn học. 2. Hạn chế: - Do thời gian trên lớp ít, dung lượng tác phẩm dài, nếu giáo viên không định hướng tốt, không chọn lọc khai thác vấn đề rất dễ đưa học sinh vào tình trạng “chạy đua với câu chữ”, nếu không nói là “nước đổ lá khoai”. - Các biện pháp trên không thể đem áp dụng vào tất cả các tác phẩm văn học mà giáo viên phải linh hoạt sử dụng và tổ chức hướng dẫn HS tìm hiểu, sưu tầm và áp dụng. Nếu không HS sẽ mãi lo đi tìm những bài viết đồng sáng tạo, thử tài chắp vụ chính của mình. Chương II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP “TẠO TÂM THẾ” TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC DÀNH CHO HỌC SINH THPT. Dưới đây là một số biện pháp “tạo tâm thế” mà tôi thường áp dụng trong thực tế giảng dạy. Trong phạm vi của đề tài này, tôi tạm phân chia chúng thành 4 hình thức và xin trình bày sơ lược về khâu chuẩn bị, yêu cầu nội dung, cách thức thực hiện và kiểm tra đánh giá đối với từng biện pháp cụ thể. 1. Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh: Trong khâu kiểm tra bài cũ, tôi không chỉ nhất nhất kiểm tra nội dung kiến thức của bài học trước mà tôi còn kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của HS cho bài học mới. Những câu hỏi kiểm tra bài cũ (sự chuẩn bị bài mới) có thể chỉ là đọc thuộc lòng một khổ thơ, một đoạn thơ hoặc nêu lên một hình ảnh trong bài thơ mà em mới phát hiện được (đối với tác phẩm thơ); có khi là về thể loại, là một nhât vật trong tác phẩm hay tóm tắt cốt truyện(đối với tác phẩm văn xuôi). Đây cũng là một cách thu hút sự chú ý, tìm hiểu của HS vào bài học ngay từ bước đầu. Nhưng phần lớn tôi thường đặt câu hỏi về quá trình thai nghén của tác phẩm, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, nhất là những tác phẩm có sự đặc biệt về hoàn cảnh ra đời. Ví dụ 1: Để kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS cho bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, tôi trình chiếu một bức ảnh về thôn Vĩ và đặt các câu hỏi: 1. “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc tử sáng tác ở đâu? Trong hoàn cảnh nào? 2. Bài thơ được khơi nguồn cảm hứng từ sự kiện gì? 3. Nhà thơ sáng tác thi phẩm này trong tình trạng sức khoẻ như thế nào? Cách sinh động hoá những câu hỏi cũng chính là cách thức kích thích trí tò mò, tìm hiểu và sự chú ý của HS vào bài học. Với cách đặt câu hỏi gợi tìm và sự nhấn mạnh, giáo viên vừa tạo được tâm thế cho HS vừa thông qua bài học mà bồi dưỡng lòng yêu cuộc sống cho các em. Ví dụ 2: Đối với truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, tôi gợi cho HS sự tò mò khi tiếp cận tác phẩm khi đưa ra những câu hỏi: Trong cuộc sống, em đã bao giờ nghe đến cái tên Chí Phèo chưa? Người ta hay gắn tên gọi Chí Phèo cho những người như thế nào? Và tại sao cái tên Chí Phèo lại xuất hiện trong cuộc sống nhiều như vậy?Nhân vật này có cuộc đời như thế nào chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tác phẩm được đánh giá là kiệt tác của nhà văn Nam Cao. Để giúp học sinh nắm được vòng đời của Chí tôi sẽ hỏi: 1. Tên gọi đầu tiên của tác phẩm “Chí Phèo” là gì? Nhan đề “Chí Phèo” do ai đặt? 2. Vì sao tác phẩm lại có nhan đề là “Đôi lứa xứng đôi”? 3. Nhân vật Chí Phèp trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao có một vòng đời như thế nào? Để trả lời được những câu hỏi trên, yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, chuẩn bị bài kĩ lưỡng ở nhà. Đây cũng chính là một cách hướng dẫn các em khi tìm hiểu một tác phẩm văn học. Hơn nữa, khi giao quyền chủ động giới thiệu bài học cho HS qua những dạng câu hỏi như thế này học sinh rất hào hứng và thích thú. 2. Thảo luận nhóm và rèn kỹ năng ứng xử: Hoạt động nhóm là một trong những PPDH phát huy tính tích cực chủ động của HS, tinh thần độc lập, tự chủ cũng như tính dân chủ trong học tập. Là biện pháp giúp HS có cơ hội trình bày, chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm, cũng như những băn khoăn, chính kiến riêng của bản thân về vấn đề thảo luận, giúp các em học hỏi lẫn nhau hoặc qua trao đổi, tranh luận mà tìm đến một sự đồng cảm, đồng điệu nào đó trong cảm nhận văn chương. Thảo luận nhóm là một phương pháp đạt hiệu quả cao trong dạy học nhưng lại rất khó tổ chức trong sự hạn hẹp của một tiết học, phòng học không có sự cách âm. Vì vậy, trong các tiết đọc - hiểu văn bản Văn học, tôi chủ yếu áp dụng ở phần củng cố, đôi khi ngay trong tiết học nhưng những vấn đề được bàn luận (có thể chỉ là một chi tiết, một hình ảnh, một nhân vật, một vấn đề lớn về nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm...) phải là những kiến thức, những tình huống có “vấn đề”, đa nghĩa, có khả năng gây ra những ý kiến tranh luận khác chiều, thậm chí trái chiều nhằm tạo không khí sôi nổi, hào hứng cho quá trình thảo luận, đặc biệt có điều kiện định hướng, uốn nắn những suy nghĩ lệch lạc của HS về vấn đề nêu ra. Đây cũng là một cách rèn luyện kỹ năng ứng xử (kỹ năng nghe, nói) cho HS. Đặc biệt tôi đưa ra cách đánh giá, cho điểm rất rõ ràng cho từng bài thảo luận, tôi yêu cầu cả nhóm thảo luận, bạn nào cũng phải làm việc sau đó cử đại diện nhóm trả lời, điểm sẽ lấy chung cho cả nhóm, bạn nào trình bày sẽ được cộng một điểm, nếu bạn khác bổ sung mà đúng thì bạn đó sẽ được cộng thêm một điểm. Những lần thảo luận như vậy tôi thấy học sinh rất hào hứng, sôi nổi học bài chứ các em không thụ động ngồi nghe và ghi chép như hàng ngày. Ví dụ 1: Trong phần củng cố bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, tôi thường giao câu hỏi thảo luận cho HS theo 4 nhóm: 1. Quan niệm của em về thái độ sống “ngất ngưởng”? 2. Thái độ sống “ngất ngưởng” (trong bài thơ) là quan niệm sống hay là một phản ứng có tính chất nhất thời? 3. Hãy liên hệ, so sánh với một số nhà văn, nhà thơ có thái độ sống “ngất ngưởng” mà em biết? 4. Đối với xã hội ngày nay, thái độ sống đó có phù hợp hay không? Vì sao? Để những cuộc tranh luận của HS thực sự bổ ích, tôi thường “định” cho HS “hướng” thảo luận phù hợp. Mỗi nhóm sẽ đưa ra ý kiến bàn luận về một vấn đề và có nhiệm vụ nhận xét, đặt câu hỏi phản biện cho các nhóm còn lại. Ví dụ 2: Trong khi phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, tôi cho HS thảo luận theo các dạng câu hỏi: 1. Nguyên nhân nào giúp Chí Phèo hồi sinh? Đâu là nguyên nhân chính? 2. Vì sao sau khi giết Bá Kiến, Chí Phèo lại tự sát? 3. Có ý kiến cho rằng cái chết của Chí Phèo là “cái chết mở ra ý nghĩa sống”? Ý kiến của em? Ví dụ 3: Khi tìm hiểu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu HS thực sự vẫn chưa hài lòng với cách hành xử của vợ chồng người đàn bà hàng chài. Tôi đã dành một thời gian nhất định để các em thảo luận và cùng giải đáp những thắc mắc đó: 1. Sự cam chịu, nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài vì tình mẫu tử hay một sự trả ơn? 2. Em có đồng tình với cách hành xử của người chồng vũ phu không? Vì sao? 3. Trong cuộc sống hiện nay, người phụ nữ còn cam chịu nhẫn nhục như người đàn bà trong tác phẩm này không? 4. Các em biết gì về những chủ trương, chính sách của nhà nước trong việc bảo vệ bà mẹ, trẻ em và chống bạo lực gia đình? 5. Bài học rút ra cho bản thân sau khi học tác phẩm? Khi thảo luận tôi nhận thấy HS rất thích thú, hăng say, tranh luận rất sôi nổi nhưng bao giờ các em đều có điểm chung thống nhất về cách nhìn nhận và đánh giá về vấn đề bạo hành gia đình. Tôi tin chắc rằng, sau khi học xong tác phẩm này, các em sẽ có cách nhìn, cách hành xử tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Sau mỗi lần thảo luận của HS, tôi tổng kết, nhận xét và khuyến khích cho điểm khá, giỏi đối với những trường hợp HS lập luận tốt hoặc nêu ra được cách cảm thụ độc đáo, mới mẻ. Với cách thức này, giáo viên vừa tạo được bầu không khí hăng say, thân thiện trong học tập, vừa giúp HS tự tin trả lời các câu hỏi, đưa ra những thắc mắc và mạnh dạn trình bày chính kiến chủ quan của mình. Qua đó phát huy được tính chủ động của HS, rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông, kỹ năng ứng xử trước một vấn đề cuộc sống. Bởi văn học là nhân học, qua văn học mà dần hoàn thiện nhân cách. 3. Mở rộng vấn đề bằng những bài viết đồng sáng tạo: Ông cha ta vẫn nói “dạy Toán, học Văn, ăn Thể dục”. Câu nói này cũng có cái lý của nó. Học văn thì dễ, nhưng dạy văn giỏi thì rất khó, là cả một vấn đề lớn. Làm sao để truyền tải cho HS một tác phẩm văn học hay, nhiều khi một truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa hay cả một trích đoạn thơ dài? Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta còn phải làm nhiều việc khác như: ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, rồi đọc một số đoạn quan trọng trong tác phẩm đã mất 1/4 - 1/3 thời gian tiết học, lại còn nói là mở rộng vấn đề. Cũng có giáo viên bảo rằng HS bây giờ...cố làm sao cho nó hết bài, chứ còn thời gian đâu mà mở rộng. Tôi nghĩ, nếu chúng ta biết cách đan xen vẫn có thể mở rộng bằng cách đọc những câu thơ vào bài học để bài giảng thêm sinh động, ấn tượng. Trong những giờ giảng văn, giáo viên không chỉ dạy những gì trong sách giáo khoa. GV cung cấp kiến thức trong SGK mới chỉ đúng nhưng chưa đủ. Vì khi giảng một tác phẩm văn học, ít nhiều chúng ta phải mở rộng vấn đề vừa để khắc sâu, vừa liên hệ so sánh khẳng định, đặc biệt là cung cấp cho các em thấy được vòng đời của tác phẩm và vị trí của nhà văn trong lòng độc giả, trong dòng văn học. Ví dụ 1: Trong phần củng cố bài học “Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu, Trọng Thủy”, sau khi cho HS thảo luận về chi tiết “ngọc trai - giếng nước”, tôi đã mở rộng bài học bằng cách đọc cho các em nghe bài thơ của tác giả Anh Ngọc: Mỵ Châu Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn Những chiếc lông không tự biết giấu mình. Nước mắt thành mặt trái của lòng tin Tình yêu đến cùng đường cùng cái chết Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu. Giá như trên đời còn có một Mỵ Châu Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ. Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ Như anh với em dẫu yêu nhau chung thủy Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm. Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu. Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào. Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước Nên em ơi ta đành tự nhắc mình. Ví dụ 2: 1. Khi đọc - hiểu tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Đây là một tác phẩm nổi tiếng của nền văn học nước nhà, là kiệt tác của tác giả. Những gì mà chúng ta đang nghiên cứu, đang chứng minh cho thấy giá trị đích thực của nó. Khi dạy, tôi đã hướng dẫn cho HS nắm được nội dung thiên truyện, song đồng thời cũng cho các em thấy được “chỗ đứng” của tác phẩm trong lòng bạn đọc qua những trang thơ đồng sáng tạo của các “hậu duệ”: “Chí Phèo vốn điển trai khoẻ mạnh Hiền lành như hạt lúa, củ khoai Tuổi hai mươi cũng mộng ước như ai Mội mái nhà tranh xum vầy chồng - vợ”. HS chăm chú nghe và các em rất tâm đắc, các em thấy được sự ra đời, lớn lên và những khao khát tuổi trẻ của Chí cũng giống như mọi người đàn ông lương thiện khác. Và dẫn dắt HS đến nguyên nhân tha hoá của Chí bằng chính những câu thơ: “Cướp của, giết người, đốt phá rạch thịt da Vũ Đại quay lưng không thừa nhận hắn ta Đã xếp hắn đứng vào hàng “quỷ dữ”. 2. Còn khi phân tích nhân vật Thị Nở - người được Nam Cao ví như nửa người nửa ngợm, như “một bức hoạ chớ trêu của tạo hoá” ấy lại chính là người cao vời vợi trong văn học Việt Nam: “Thị nở đó! Người xấu xa đần độn nhất một thời Lại là người một thời đẹp hơn tất thảy Tình yêu dẫu không nồng nàn bỏng cháy Vẫn sáng ngời qua những trang văn” . (Lê Kim Nhung). 4. Thử tài chắp bút. Học văn không chỉ là tìm hiểu, nắm bắt giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học mà đôi khi đòi hỏi người học phải đồng sáng tạo cùng tác giả. Để làm được điều đó, tôi thường tạo điều kiện để các em thử tài đóng vai nhà văn qua phần củng cố hoặc kiểm tra 15 phút ngay sau khi học xong tác phẩm. Ví dụ 1: Sau khi chết, Trọng Thuỷ đã đi tìm gặp Mỵ Châu. Em hãy tưởng tượng và viết lại cuộc gặp gỡ giữa Mỵ Châu và Trọng Thuỷ dưới thuỷ cung? HS đã viết như sau: 1. Mỵ Châu chết, Trọng Thuỷ đau xót vô cùng, vì nhớ thương nàng mà Trọng Thuỷ lao đầu xuống giếng tự vẫn. Sau khi xuống long phủ, Trọng Thuỷ vượt qua bao vất vả, trở ngại để tìm gặp Mỵ Châu. Bao ngày trôi qua, tin tức của Mỵ Châu vẫn bặt vô âm tín. Trọng Thuỷ không buông xuôi bỏ cuộc mà càng quyết tâm hơn. Ông trời không phụ lòng người, cuối cùng Trọng Thuỷ cũng gặp được Mỵ Châu. Trước sự hối hận, van xin, khẩn cầu chân thành của Trọng Thủy, Mỵ Châu đã tha thứ và hai người sống hạnh phúc bên nhau. 2. Sau khi chết, linh hồn của Trọng Thủy đi lang thang tìm kiếm Mỵ Châu để xin nàng tha thứ. Chàng đi và dò hỏi khắp nơi nhưng vẫn không gặp được Mỵ Châu. Một ngày kia tình cờ chàng biết được Mỵ Châu giờ đã trở thành con gái của Long Vương. Trọng Thủy vui mừng khôn xiết, vượt qua bao bất trắc đến thủy cung xin gặp Mỵ Châu. Gặ
Tài liệu đính kèm: