Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm

Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Như chúng ta đã biết, từ nhiều năm nay, ngành Giáo dục - Đào tạo luôn

đẩy mạnh việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm hướng tới hiệu quả

giáo dục cao nhất để tạo ra nguồn lực con người có chất lượng cho đất nước. Đó

là những con người phát triển toàn diện, có tri thức khoa học, biết chiếm lĩnh

đỉnh cao trong học tập và lao động sáng tạo, có nếp sống văn minh thanh lịch,

biết kế thừa và phát huy những nét đẹp trong truyền thống đạo lý của dân tộc.

Về bản chất, đổi mới phương pháp dạy học là đưa phương pháp dạy học

mới vào giảng dạy trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học

truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học. Mục đích của việc đổi mới

phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một

chiều, lối học thụ động, máy móc sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích

cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn

luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến

thức vào những tình huống khác nhau. Qua đó, bồi dưỡng cho học sinh niềm say

mê học tập và ý chí vươn lên.

Trong nhà trường, tất cả các môn học đều cần sự đổi mới nhằm đạt được

mục tiêu trên. Trong đó, không thể không nói đến môn Ngữ văn với những đặc

trưng riêng biệt. Đây là môn học có vai trò quan trọng trong sự hình thành và

phát triển nhân cách của học sinh, có nhiệm vụ giúp học sinh thấm nhuần những

đạo lí ngàn đời của dân tộc, đồng thời có những phẩm chất, nhân cách của con

người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với xu thế phát triển và tiến

bộ của thời đại. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của dạy học môn Ngữ văn

là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học bằng cách thực hiện dạy học dựa

vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng

dẫn của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành

phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm

tin và niềm vui cho các em trong học tập. Do đó, việc đổi mới phương pháp theo

hướng phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh là điều tất yếu.

pdf 23 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 1771Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động sáng 
tạo. 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 8/23 
- Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức: Bằng 
ngôn ngữ nói hoặc viết, bằng sơ đồ viết lên giấy khổ lớn (nếu không có máy 
chiếu vật thể), đoạn video hoặc hình thức power point do chính các em thực 
hiện... 
4.4. Vai trò của giáo viên 
 - Giáo viên cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo 
luận cho các nhóm. 
- Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên cần hỗ trợ tích 
cực, bao quát tinh thần làm việc của học sinh, lắng nghe ý kiến của học sinh, 
nhắc nhở hoặc gợi ý cho các em nếu cần thiết. Khi các nhóm trình bày xong, 
giáo viên cần tóm tắt, tổng hợp, liên kết nội dung của từng nhóm để nêu bật lên 
được nội dung của bài học rồi nhận xét ngắn gọn về ý thức, tinh thần làm việc 
của các nhóm. 
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 
1. Thuận lợi 
- Tổ chức hoạt động nhóm sẽ tạo được không khí vui tươi, sinh động cho 
giờ dạy. Điều đó rất phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi học sinh cấp THSC nên 
được các em vui vẻ đón nhận. 
- Phần đông học sinh cấp THCS rất thích được giao nhiệm vụ và hào 
hứng hoàn thành rất có trách nhiệm. Thêm vào đó là nhiều em có năng lực về 
công nghệ thông tin, hội họa, văn nghệ, khả năng diễn xuất, kỹ năng và hành vi 
giao tiếpKhi được thầy cô khuyến khích, các em rất tích cực thể hiện trong 
hoạt động nhóm. 
2. Khó khăn 
- Như chúng ta đã biết, chương trình tổng thể các môn học ở cấp THCS 
còn khá cồng kềnh đòi hỏi học sinh phải tập trung đồng thời cho quá nhiều đơn 
vị kiến thức ở nhiều môn học. Đó là chưa kể đến độ chăm chỉ cùng ý thức tự 
giác của học sinh lại càng ngày càng giảm đi. Trong đó, chương trình Ngữ văn 
cấp THCS hiện nay cũng khá nặng về khối lượng kiến thức. Thời lượng dành 
cho nhiều đơn vị kiến thức, đặc biệt là các giờ “Đọc - hiểu văn bản” còn quá eo 
hẹp. 
- Học sinh trong lớp thường ở trên các địa bàn dân cư khá rộng nên việc 
thực hiện nội dung thảo luận nhóm ở nhà còn khó khăn. 
 - Tổ chức hoạt động nhóm một cách nghiêm túc, nhất là với những nhiệm 
vụ giao về nhà, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức hướng 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 9/23 
dẫn học sinh chuẩn bị. Trên lớp, nếu không có kế hoạch và cách thức tổ chức. 
giáo viên thường bị động về thời gian hoặc rơi vào tình trạng hình thức. 
- Lớp học hiện nay thường có số lượng quá đông (trên khoảng 40 học 
sinh), không gian lớp học lại chật hẹp, gây trở ngại trong việc sắp xếp vị trí và tổ 
chức, quản lí các nhóm. 
 - Một số học sinh còn ngại chuẩn bị hoặc có tâm lí ỷ lại hoặc do chưa yêu 
thích bộ môn nên không muốn tham gia. Mỗi nhóm thường chỉ tập trung ở một 
số đối tượng tích cực, có năng lực nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. 
- Do vậy, muốn hoạt động thảo luận nhóm thành công, giáo viên phải nắm 
vững phương pháp, biết cách tổ chức, biết kết hợp nhiều phương tiện, kỹ thuật 
hỗ trợ. Song yếu tố quyết định vẫn là ở học sinh. Vì thế, ngoài việc phải năng 
động, tích cực, các em cần được hướng dẫn cụ thể trước khi tiến hành thảo luận 
và ngay cả khi chuẩn bị soạn bài ở nhà trong tiết học trước. 
- Về phía giáo viên, một số vẫn chưa thực sự nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, 
học hỏi và là kiên trì tìm giải pháp thực hiện đổi mới dạy học bằng cách tổ chức 
học sinh hoạt động nhóm. Do đó, phương pháp này, hoặc bị xem nhẹ, hoặc thực 
hiện nặng về tính hình thức nên kết quả hạn chế, học sinh không hứng thú tham 
gia. 
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH 
1. Chú trọng công tác chuẩn bị 
1.1. Thiết kế giáo án 
Một nét nổi bật dễ nhận thấy của bài học theo phương pháp dạy học tích 
cực là hoạt động của học sinh chiếm tỷ trọng cao so với hoạt động của giáo viên, 
về mặt thời gian cũng như cường độ làm việc. Thực ra, để có một tiết học phát 
huy tính tích cực của học sinh ở trên lớp thì trong khâu soạn bài, giáo viên phải 
đầu tư rất nhiều công sức và tâm sức. Khi soạn giáo án theo hướng sử dụng 
phương pháp tích cực, những dự kiến của giáo viên phải tập trung chủ yếu vào 
các hoạt động của học sinh. Hay nói đúng hơn là những hoạt động nhận thức của 
học sinh. Do vậy, giáo án phải thể hiện được các hoạt động nhận thức mà giáo 
viên dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh. Ở mỗi bài soạn, giáo viên phải suy nghĩ 
một cách công phu về những khả năng diễn biến các hoạt động đề ra cho học 
sinh, dự kiến những giải pháp điều chỉnh để không bị “cháy” giáo án. Như vậy, 
giáo án phải được giáo viên thiết kế theo nhiều phương án và cần linh hoạt điều 
chỉnh theo diễn biến của tiết học, lôi cuốn sự tham gia tích cực của học sinh. 
Mặt khác, thảo luận nhóm chỉ là một trong số những phương phương pháp giáo 
viên sử dụng nên không thể có một giờ dạy học hiệu quả nêu như không có thiết 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 10/23 
kế bài giảng hợp lí, sáng tạo. Để phát huy được mặt tích cực của phương pháp 
thảo luận nhóm, trước hết, giáo viên phải chọn được nội dung cho phù hợp vì 
không phải bất kì nội dung nào trong bài học cũng áp dụng được phương pháp 
này một cách hiệu quả. 
Một điều cần chú ý là khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong 
giảng dạy, giáo viên cần xây dựng các tình huống, các vấn đề vừa mang hơi thở 
cuộc sống, vừa phải thật gần gũi với nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh mà vẫn 
phải phải đậm chất văn chương.Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Nói với con” của nhà 
thơ Y Phương, có thể đưa ra nội dung thảo luận nhóm: “ So sánh hình ảnh thô sơ 
da thịt (ở hai lần xuất hiện trong bài thơ) để thấy ngôn ngữ thơ Y Phương rất 
giản dị, trong sáng; hình ảnh thơ mộc mạc, cô đọng, phong phú và sinh động”. 
Sau khi các nhóm trình bày ý kiến, tranh luận, phản bác, giáo viên dẫn dắt học 
sinh đi đến kết luận. Lần thứ nhất cụm từ thô sơ da thịt được dùng để nói với 
con về sức sống mạnh mẽ, sức mạnh truyền thống của quê hương. Lần thứ hai, ở 
cuối bài, người cha nhắc lại để con khắc cốt ghi xương một điều: Quê hương 
mình tuy mộc mạc, chất phác; người đồng mình tuy có thô kệch nhưng có vẻ 
đẹp về ý chí, nghị lực, phẩm chất, tâm hồn, tính cách,... Vì vậy, trên con đường 
đời, con phải làm được những điều đẹp đẽ, phải sống cao thượng, tự trọng để 
xứng đáng là người đồng mình. Từ đó, học sinh vừa hiểu được thứ “ngôn ngữ 
thổ cẩm” quyến rũ, ngọt ngào của Y Phương, vừa thấy được lời cha nói với con 
chính là lời gửi trao thiêng liêng giữa hai thế hệ. 
1.2. Giao nhiệm vụ cho học sinh theo nhóm 
Trên thực tế, trong một số bài học về Tiếng Việt, Tập làm văn cũng như 
một số văn bản (với các giờ Hướng dẫn tự học, ôn tập), cần cân nhắc để giao bài 
tập cho học sinh từ giờ học trước để học sinh có nhiều thời gian chuẩn bị. Cần 
chú ý đến những câu hỏi phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo 
cho học sinh. Cần tạo cho học sinh thói quen chủ động, giáo viên có kế hoạch 
trong công việc và cần giám sát để động viên, hướng dẫn các em kịp thời. 
2. Quá trình thực hiện trong giờ dạy học 
2.1. Kết hợp hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm với các phương pháp dạy 
học truyền thống 
Để phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, phụ thuộc rất nhiều 
vào cách sử dụng phương pháp sao cho hiệu quả chứ không phải bản thân 
phương pháp đó. Việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học phụ thuộc 
vào rất nhiều yếu tố như nội dung bài học, đối tượng học sinh, cơ sở vật chất của 
nhà trường, sự dẫn dắt của giáo viên Giáo viên cần lựa chọn và vận dụng 
phương pháp dạy học để học sinh được hoạt động tích cực về mặt nhận thức 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 11/23 
cũng như về mặt thực hành và tự khám phá tri thức mới. Mặt khác, chúng ta 
cũng không nên quan niệm một cách cứng nhắc rằng phương pháp này tích cực 
hơn hay phương pháp kia tốt hơn mà vấn đề là ở chỗ trên cơ sở nắm vững đặc 
điểm của chúng cần vận dụng sao cho hiệu quả theo mục đích dạy học, khả năng 
của giáo viên và học sinh. Do đặc trưng của dạy học môn Ngữ văn là sức mạnh 
của ngôn từ nên rất cần chú ý đến phương pháp thuyết trình. Đây là phương 
pháp tưởng như có thể làm cho học sinh thụ động nhưng chính ngôn ngữ của 
giáo viên đã ẩn chứa sức mạnh vô hình, vừa để lại những dư âm sâu lắng, vừa 
gợi ra bao nghĩ suy trong học trò. Như vậy, mặt bên trong của phương pháp 
thuyết trình đã thể hiện mức độ tính tích cực nhận thức của học sinh, đòi hỏi tư 
duy tìm tòi, sáng tạo của các em. Giáo viên phải nhận thức sâu sắc rằng đổi mới 
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh 
không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ hoặc thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy 
học truyền thống. Đối với môn Ngữ văn, do đặc thù tri thức của bộ môn, nên các 
phương pháp truyền thống nếu biết vận dụng hợp lý thì vẫn rất hiệu quả. Cần kế 
thừa và phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền thống 
như phương pháp thuyết trình, vấn đáp (những phương pháp này đã hoàn thành 
xuất sắc sứ mệnh của nó trong những thập niên trước của thế kỉ hai mươi) 
Đồng thời, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các phương pháp hiện đại 
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập phù hợp với 
hoàn cảnh dạy học bộ môn hiện nay như phương pháp thảo luận nhóm. Thực 
tiễn giảng dạy đã cho tôi hiểu rằng vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học 
truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại sẽ mang lại hiệu quả khả quan. 
2.2. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong việc sử dụng 
phương pháp thảo luận nhóm 
Như chúng ta đã biết, theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
nhiều năm gần đây, các giáo viên đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào dạy học 
theo hướng sử dụng CNTT như một phương tiện hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới 
phương pháp dạy học.Vì vậy, từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như: 
máy chiếu đa năng, máy chiếu vật thể, projector... vào dạy học là con đường hữu 
hiệu có tác dụng nâng cao hiệu quả tiết học. Mặt khác, nếu ứng dụng thành công 
CNTT vào dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung, vào việc sử dụng phương pháp 
thảo luận nhóm nói riêng, thì chắc chắn học sinh sẽ hứng thú hơn. Đặc biệt, ở 
cấp THCS, do các em đã được trang bị kiến thức về CNTT nên giáo viên có thể 
huy động học sinh cùng tham gia xây dựng bài giảng qua các tình huống được 
thể hiện trên clip hoặc trình chiếu Powerpoint dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 12/23 
2.3. Rèn luyện để tạo thói quen tốt cho học sinh trong thảo luận nhóm 
Trước hết, cần yêu cầu học sinh soạn bài theo hướng dẫn của giáo viên. 
Đây là công việc phải được thực hiện một cách tự giác để học sinh bước đầu tự 
khám phá tri thức, cảm nhận được vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. Cần rèn cho 
học sinh có thói quen đọc tác phẩm kỹ càng, ghi nhớ và suy ngẫm những câu, 
những đoạn mà mình tâm đắc nhất. 
Bên cạnh đó, cần rèn cho các em thói quen sẵn sàng hợp tác trong nhóm, 
trong lớp, có ý thức chuẩn bị các tình huống đóng vai được thầy cô giao về nhà 
một cách thật nhiệt tình, say mê và sáng tạo. Rèn kỹ năng nói qua việc mạnh dạn 
trình bày ý kiến trước lớp và tranh luận phản bác với các nhóm khác. 
2.4. Phát huy vai trò của giáo viên 
Cần phải hiểu rằng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá 
hoạt động nhận thức của học sinh không có nghĩa là hạ thấp hay giảm nhẹ vai 
trò của giáo viên. Muốn vận dụng phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả 
cao, người giáo viên phải thực sự trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn 
các hoạt động học tập độc lập hoặc theo nhóm để học sinh chiếm lĩnh tri thức 
mới, hình thành kỹ năng, thái độ, tình cảm và niềm tin theo yêu cầu của nội 
dung, chương trình. Để đạt được điều đó, hoạt động của giáo viên phải đa dạng 
hơn, phức tạp hơn và khó khăn hơn nhiều. Khi vận dụng các phương pháp tích 
cực, giáo viên có sự giao tiếp thường xuyên với học trò. Vì vậy, giáo viên phải 
có chuyên môn, có kinh nghiệm sư phạm vững vàng, làm chủ được diễn biến 
của tiết học thì mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập của học 
sinh. Trên hết, giáo viên cần có tâm huyết và lòng nhiệt tình, thật sự say mê để 
sáng tạo và đổi mới không ngừng trong quá trình dạy học. 
Về cách thức tổ chức học sinh thảo luận nhóm, trước hết, giáo viên phải 
dứt khoát trong động thái, nghiêm túc về tư thế tác phong sư phạm, linh hoạt 
trong xử lý tình huống. Ngoài ra, cần phải duy trì nề nếp lớp học do việc sử 
dụng phương pháp thảo luận nhóm dễ gây ra những xáo trộn trong lớp. Cần phải 
có quy định về các nguyên tắc thảo luận nhóm cho học sinh. Bởi một lớp học 
không phải tất cả học sinh đều có ý thức tự giác trong học tập. Chính vì vậy, 
trong thời gian thảo luận giáo viên phải đề ra các quy định cho các nhóm, cụ thể 
là tất cả học sinh phải tham gia thảo luận cùng với nhóm. Ngoài ra, cần quy định 
rõ về thời gian thảo luận, thời gian trình bày để tránh tình trạng học sinh trình 
bày lan man, không đảm bảo thời gian cho tiết học. Phương pháp thảo luận 
nhóm nên chú trọng đối thoại, phát huy dân chủ rộng rãi, thông tin đa chiều 
nhưng cũng cần hướng vào trọng tâm, mục đích yêu cầu nội dung thảo luận 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 13/23 
tránh nói lan man, dài dòng. Giáo viên cũng cần hết sức chú ý đến phần nhận 
xét, đánh giá học sinh để khích lệ các em. 
3. Một số ví dụ minh họa phương pháp thảo luận nhóm 
3.1. Bài “Thầy bói xem voi”( lớp 6) 
 Đây là một truyện ngụ ngôn xúc tích, truyền tải ý nghĩa rất sâu xa. Tác giả 
dân gian đã rất tinh tế và sâu sắc xây dựng cốt truyện đơn giản mà đầy dụng ý: 
năm ông thầy bói mù từ việc ngồi chuyện gẫu đến việc cùng “xem” voi và kết 
quả là một cuộc khẩu chiến gay gắt rồi một cuộc hỗn chiến đến “ toác đầu, chảy 
máu” chỉ vì ai cũng kiên quyết cho là mình phán đúng nhất về voi, nhất quyết 
phủ nhận ý kiến của người khác. Để học sinh nhận thức bài học ngụ ngôn một 
cách tự nhiên, tôi đã cho các em thảo luận nhóm: “Nếu được chứng kiến cảnh 
các thầy bói lao vào đánh nhau, em sẽ làm gì ?”. Đưa tình huống mở như vậy, 
học sinh đã rất hào hứng đưa ra ý kiến của nhóm mình và bổ sung, phản bác 
cùng các nhóm bạn. Qua đó, các em đã nhận thức được cần xem xét sự vật, sự 
việc một cách toàn diện, thấu đáo. 
3.2. Bài “Cảnh ngày xuân”(lớp 9) 
Để thấy rõ nét tài hoa của thi hào Nguyễn Du trong cách dùng từ, tôi đã 
đưa ra chủ đề thảo luận: “Chứng minh rằng trong sáu câu thơ cuối, Nguyễn Du 
đã sử dụng từ láy rất tài tình”. Sau khi các nhóm trình bày, giáo viên tổng hợp ý 
kiến của các nhóm, giúp học sinh nhận thấy: chỉ trong sáu câu thơ, Nguyễn Du 
sử dụng tới năm từ láy (tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ); có từ láy 
vừa gợi sắc thái cảnh vật, vừa gợi tâm trạng con ngườivà còn góp phần dự báo 
về điều không hay sắp xảy ra. Cảnh vật hiện lên với nét thanh, dịu dàng, tĩnh 
lặng đồng điệu với tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối của con người. 
Tiếp đó là một nội dung thảo luận về sự tài tình trong bút pháp tả cảnh 
ngụ tình của thi sĩ: Hai cặp câu thơ sau đều tả hình ảnh cây cầu và dòng sông. 
Vì sao chúng lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau ? 
“ Nao nao dòng nước uốn quanh 
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.” 
và “Dưới cầu nước chảy trong veo 
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.” 
Các ý học sinh cần nhận ra là cùng miêu tả một đối tượng (một cây cầu, 
một dòng sông) qua cái nhìn của cùng một nhân vật ở hai thời điểm rất gần nhau 
nhưng lại gắn với tâm trạng không giống nhau. Vì vậy, sắc thái cảnh vật cũng 
khác nhau. Khi Kiều đi du xuân trở về trong niềm bâng khuâng tiếc nuối, lại 
chuẩn bị gặp mộ Đạm Tiên thì cảnh vật vắng lặng, ảm đạm gợi buồn (cặp câu 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 14/23 
thơ thứ nhất). Nhưng ngay sau đó, khi nàng gặp Kim Trọng, những rung cảm về 
mối tình đầu “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e” đã khiến không không gian 
trở nên trong sáng, êm đềm, dịu nhẹ như ở chốn thần tiên. Qua hai tình huống tổ 
chức thảo luận nhóm, học sinh hiểu rõ hơn về tài năng sử dụng bút pháp tả cảnh 
ngụ tình của thi hào Nguyễn Du. 
3.3. Bài “Chuyện người con gái Nam Xương”(lớp 9) 
Tôi đã cho học sinh thảo luận nhóm với nội dung: Nêu ý nghĩa của chi 
tiết “cái bóng” trong câu chuyện. 
Sau khi các nhóm trình bày, giáo viên chốt lại: Chi tiết này hàm chứa 
nhiều ý nghĩa sâu xa. Trước hết, nó giúp người đọc hiểu được đức hạnh của Vũ 
Nương; đồng thời tạo ra bi kịch (chứa đựng những yếu tố dễ nghi ngờ, được nói 
ra từ miệng một đứa trẻ) của Vũ Nương; khắc hoạ đậm nét nỗi oan vô bờ của 
nàng khiến người đọc thêm căm phẫn xã hội phong kiến bất công, tàn ác. Đây là 
chi tiết làm câu chuyện phát triển, không có nó ta không thể biết được hoàn cảnh 
và số phận, tính cách của Vũ Nương. 
Sau đó là nội dung: “Chuyện người con gái Nam Xương” đáng lẽ có thể kết 
thúc ở chi tiết Vũ Nương tự tử ở bến Hoàng Giang nhưng tác giả đã thêm vào một 
đoạn truyện có rất nhiều yếu tố truyền kì. Nêu ý nghĩa của những yếu tố đó. 
Từ ý kiến các nhóm, giáo viên tổng kết những ý nghĩa của chi tiết này: 
Trước hết, chi tiết cái bóng khẳng định được bản chất tốt đẹp của Vũ Nương: 
được sống bình yên, đầy đủ dưới thuỷ cung vẫn ý thức được bổn phận làm vợ, 
làm con. Nó còn góp thêm một tiếng nói chứng minh cho chân lý “ ở hiền gặp 
lành”, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta: người tốt gặp oan ức sẽ có 
ngày được đền trả. Đặc biệt, nó tạo ra kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện 
vì Vũ Nương trở về lộng lẫy, trang trọng từ một cuộc sống bình yên, sung 
sướng; nàng trở về từ chính nơi âm thầm ra đi khiến người đọc cảm nhận được 
cuộc sống của nàng như không hề đứt đoạn, nàng đã trở về trong ánh sáng của 
đàn tràng giải oan do chính Trương Sinh dựng nên. Tuy nhiên, đây cũng là kết 
thúc không có hậu vì cuộc sống dưới thuỷ cung chỉ là cuộc sống ảo, tác giả chỉ 
thêm vào câu chuyện nhằm làm tăng thêm tính chất truyền kì và hoàn chỉnh nét 
đẹp của nhân vật; hình ảnh Vũ Nương trở về chỉ là hình ảnh ảo, lúc ẩn lúc hiện 
rồi biến mất bởi nếu nàng có trở về thì cũng không thể chắp vá được những 
mảnh vỡ của hạnh phúc; bé Đản mãi mãi thiếu vắng sự chăm chút yêu thương 
của người mẹ, vợ chồng mãi xa nhau và phần mộ tổ tiên vẫn thiếu một bàn tay 
chăm sóc. 
Tạo hứng thú trong giờ dạy học Ngữ văn bằng phương pháp thảo luận nhóm 
 15/23 
3.4. Bài “Bến quê” (hướng dẫn đọc thêm) của Nguyễn Minh Châu (lớp 9) 
Trước hết, sau khi học sinh nêu được tình huống truyện, giáo viên yêu cầu 
học sinh thảo luận về ý nghĩa của những tình huống truyện để các em hiểu được 
thông qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới người đọc 
những suy tư chiêm nghiệm về cuộc đời con người. Đó là cuộc sống và số phận 
con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra 
ngoài những dự định và ước muốn; trên đường đời, con người thật khó tránh 
khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình; bình thường, con người không dễ 
gì nhận ra sự giàu có và mọi vẻ đẹp ở những sự vật bình dị quanh ta. Tuy nhiên, 
đây là bài hướng dẫn đọc thêm nên giáo viên có thể đưa ra nội dung để học sinh 
thảo luận, tìm hiểu ở nhà. Giáo viên kết hợp tổng kết trong giờ ôn tập. 
Cũng trong bài học này, để học sinh hiểu sâu sắc ý nghĩa tác phẩm cũng 
như sự tài hoa của Nguyễn Minh Châu trong việc sử dụng những hình ảnh mang 
ý nghĩa biểu tượng, giáo viên cho các em thảo luận nội dung: Nêu ý nghĩa nhan 
đề “Bến quê”. Từ đó, giáo viên tổng kết ý kiến của các em: Nghĩa thực là bến 
đò quê hương, bờ bãi bên kia sông, nơi con người sinh ra và lớn lên. Nghĩa 
tượng trưng là vẻ đẹp gần gần gũi, bình dị, thân thiết và giàu có mà đến tận cuối 
đời Nhĩ mới phát hiện và trân trọng. Bến quê thể hiện một tình yêu cuộc sống 
mãnh liệt của Nhĩ trước những gì thân quen, thương yêu nhất như người vợ của 
anh và những gì hồn nhiên, gần gũi nhất như bầy trẻ, ông lão hàng xóm... Bến 
quê còn biểu tượng cho những gì thuần phác nhất, cổ xơ 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_trong_gio_day_hoc_ngu_van.pdf