Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh Lớp 6

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh Lớp 6

1. Lí do chọn đề tài

Chữ viết của học sinh hiện nay đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm

của các nhà trường. Thực tế cho thấy đa số học sinh viết chữ xấu, sai lỗi chính tả

nhiều làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em. Đã không ít thầy cô

giáo phải thốt lên: “Học sinh bây giờ viết chữ tệ quá!”. Vì thế trong các kỳ thi, tỷ lệ

môn Ngữ văn đạt yêu cầu thấp hơn một số môn học khác. Điều đó chứng tỏ yếu tố

chữ viết có vai trò rất quan trọng và phần nào quyết định chất lượng học tập của các

em. Đã có nhiều em nắm kiến thức tương đối tốt nhưng do chữ viết xấu, sai lỗi nhiều

cho nên điểm không cao (thậm chí có khi không đạt yêu cầu) và vì thế đã không ít

trường hợp đáng tiếc xảy ra (các em đó không đủ điều kiện đạt danh hiệu học sinh

giỏi hoặc học sinh tiên tiến).

Rồi thực tế ngoài xã hội, nhiều người có học vấn, có bằng cấp hẳn hoi nhưng

vẫn còn trường hợp chữ viết xấu, khó đọc và sai lỗi chính tả rất nhiều. Từ thực tế đó,

là người làm công việc dạy chữ, tôi thấy mình có một phần trách nhiệm. Mỗi khi

chấm vở và chấm bài cho các em, tôi rất buồn, vì vậy tôi đã mạnh dạn đi vào vấn đề

nan giải, đang là mối lo cho nhiều nhà trường và xã hội trong những năm gần đây.

Tôi đã tiến hành tìm những biện pháp cụ thể, thích hợp để luyện chữ viết cho các em

nhằm ngăn ngừa, uốn nắn và dần dần chấm dứt tình trạng viết chữ xấu và sai lỗi

chính tả cho học sinh và bước đầu đã có hiệu quả.

pdf 14 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 02/03/2022 Lượt xem 1142Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh Lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn học đường mà còn ở ngoài xã hội. 
Về việc sai lỗi chính tả, chúng ta không khó bắt gặp các biển quảng cáo, các bản tin, 
các phương tiện thông tin đại chúng có chỗ dùng sai lỗi chính tả. Vậy nên muốn 
hạn chế điều đó thì mỗi người cần phải được rèn rũa ngay từ khi ngồi trên ghế nhà 
trường. 
 2. Cơ sở thực tiễn 
 2.1. Thực trạng: 
Như chúng ta đã biết, chữ viết của con người được hình thành trong quá trình 
lâu dài dưới sự giảng dạy của thầy cô trong nhà trường và sự rèn luyện của bản thân 
học sinh. Vì thế muốn khắc phục, uốn nắn và sửa chữa chữ viết cho học sinh phải 
kiên trì và chịu khó của cả hai phía: Người dạy và người học. Để khắc phục được tình 
trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả, chúng ta không thể có kết quả ngay được. Hơn thế 
nữa, muốn sửa được chữ viết cho các em, người giáo viên cần phải tìm nguyên nhân 
của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả. Trên cơ sở đó, theo tôi có thể tạm thời chia thành 
các lỗi sau: 
1. Chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện: 
- Chữ viết mất nét: Các em viết chua hoàn thiện một chữ hoặc một từ: những 
chữ thường gặp như: g, r, l, h, o, m 
- Chữ viết chưa phân biệt rõ ràng như chữ (n) với chữ (u) hoặc chữ (h) với chữ 
(l) 
- Cẩu thả trong việc sử dụng các thanh điệu, dấu câu đặt không đúng chỗ hoặc 
bỏ không đánh dấu: sử dụng thanh huyền, thanh sắc không rõ ràng. 
2. Sai qui tắc chính tả: 
- 
 4 
- Không viết hoa danh từ riêng, địa danh hành chính, không viết hoa chữ cái 
đầu câu. 
- Không phân biệt được khi nào viết (c), khi nào viết (k) 
- Hết một ý không biết xuống dòng, sau dấu chấm, không viết hoa hoặc viết 
hoa tuỳ tiện 
3. Không hiểu rõ nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm đơn như l/n, s/x, r/d/gi; lẫn lộn 
phụ âm ghép như ch/tr, ngh/ng  
4. Do tiếng địa phương nên dẫn đến phát âm sai rồi khi viết cũng bị sai. Ví dụ: 
phát âm sai: mới, mấy (với), ... 
- Không phân biệt đúng dấu hỏi- dấu ngã: suy nghỉ (suy nghĩ), chử viết (chữ 
viết)...; dấu hỏi- dấu nặng: thặng (thẳng), bận (bẩn) 
Và còn nhiều nguyên nhân khác nữa dẫn đến hiện tượng chữ xấu và sai lỗi 
chính tả của học sinh. 
 2.2. Kết quả của thực trạng trên: 
Chính vì vậy, muốn khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn 
mà còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết 
luyện viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện chữ 
cho học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho nên 
việc luyện chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo chúng ta. Vì 
thế người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ viết cho học 
sinh trong từng tiết bài và kiểm tra đánh giá thường xuyên. 
Để thực hiện được ý định “Rèn kĩ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ 
Văn cho học sinh lớp 6” của mình, tôi đã vạch ra một số biện pháp cụ thể ngay từ 
đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp. 
 3. Các giải pháp thực hiện: 
 3.1. Kiểm tra, phân loại: 
Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi người 
làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Tôi đã 
dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho các em. Đồng thời 
tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi dạy. 
Năm học 2014- 2015 tôi được phân công dạy lớp 6A với tổng số học sinh là 36 
em. Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm ba 
nhóm chính: 
Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, không sai lỗi chính tả 
hoặc có một hai lỗi không đáng kể 
Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả. Hầu hết trong 
nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ viết cẩu thả, tuỳ tiện, sai 
quy tắc chính tả và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm. 
Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ 
âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ. 
Bảng khảo sát chữ viết của học sinh- lớp 6A (Năm học: 2014- 2015) 
(Sĩ số: 36 học sinh: 22 nam; 14 nữ) 
- 
 5 
Nhóm Số lượng (học sinh) Tỉ lệ (%) 
1 10 27,7 
2 16 44,6 
3 10 27,7 
 3.2. Phương hướng, cách thức thực hiện: 
Qua việc phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng. Đồng 
thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép của giáo viên. 
Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với từng đối tượng. 
Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết theo từng tuần 
và yêu cầu học sinh chuẩn bị thêm một vở ô-li để luyện văn và luyện viết nhằm giúp 
các em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. 
Các vở này tôi kiểm tra một tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô-li, tôi đã ra 
đề về nhà cho các em làm). 
Đối với học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ viết mà còn 
chú ý đến nội dung, chất lượng của bài viết. 
Đối với số học sinh ở nhóm 2, tôi cho thêm một tháng một bài luyện viết và tập 
trung các em học một buổi trong một tháng để uốn nắn, sửa chữa chữ viết tỉ mỉ hơn 
đối vơí nhóm 1. 
Riêng nhóm 3: mỗi tuần, tôi cho thêm một bài viết chính tả về nhà để học sinh 
rèn luyện thêm để sửa chữa tỉ mỉ hơn với nhóm 1 và 2. 
Đồng thời tôi đề nghị phụ huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học 
tập của các em ở nhà để có các biện pháp kịp thời uốn nắn các em. 
 4. Các biện pháp thực hiện cụ thể: 
 4.1. Giới thiệu kiểu chữ: 
Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải lại cho các em nắm được 
kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường, cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã được 
học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen tính cẩu 
thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên, tôi giới thiệu cho các 
em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và kiểu chữ nghiêng. 
Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho thuận tay và hợp ý 
thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ đó, không được tuỳ 
tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy chữ viết sẽ không thống nhất và xấu. 
 4.2. Giới thiệu cách trình bày một đoạn văn: 
Tôi cho treo bảng phụ ghi một đoạn văn mẫu và cho học sinh nhắc lại hình 
thức trình bày một đoạn văn, nhiệm vụ của đoạn văn. Khi viết đoạn văn thì cần chú ý 
tới những yêu cầu gì? ( Trình bày, đặc biệt là chữ viết). 
 4.3. Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh: 
 * Đối với học sinh: 
Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại 
với thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để cùng phát hiện lỗi 
của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Tôi học sinh nhóm hai và đặc biệt là 
- 
 6 
nhóm ba chép chậm hơn và chữ viết xấu hơn nhóm một. Bởi lâu nay các em viết theo 
kiểu tuỳ hứng, cẩu thả và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời tôi kể cho các 
em nghe một số mẩu chuyện về tác hại của chữ viết xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến 
người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng bài kiểm tra kém để các em thấy rõ tầm quan 
trọng của chữ viết. Từ đó các em có ý thức uốn nắn, sửa chữa và rèn luyện chữ viết 
của chính mình. Qua đó cho học sinh thấy “nét chữ” là “nết người” để các em phải 
cẩn thận, tránh cẩu thả trong khi viết chữ. 
Vấn đề Rèn kỹ năng viết đúng chính tả trong môn Ngữ Văn cho học sinh lớp 6 
chủ yếu là luyện ở nhà, dưới sự hướng dẫn của cô giáo. Vì thế ngay trong kỳ họp phụ 
huynh đầu năm của lớp, tôi trao đổi về tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý 
định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ một ngày dành chút ít thời gian quan tâm 
nhắc nhở các cháu học tập và luyện chữ. Cùng với đó việc luyện chữ phải rèn vào 
một thời gian nhất định, có thời gian biểu rõ ràng cho các cháu. Việc làm này được tất 
cả các phụ huynh đồng tình ủng hộ. 
Trong buổi học thứ nhất, sau khi hướng dẫn và luyện viết một phần ở lớp, tôi 
giao bài cho các em viết vào vở luyện viết và vở luyện văn ở nhà để hôm sau thu 
chấm. 
Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau đó 
cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng với các 
bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn và cách 
làm cũng như với nhóm hai và nhóm ba nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả nội 
dung đoạn văn. 
Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà cô giáo đề ra và cứ 
hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho viết một đoạn văn 
và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở chấm một tháng hai lần. Riêng nhóm 3 
tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia đình cùng với sự kiểm tra 
chặt chẽ của giáo viên, sau một tháng đầu khi chấm bài và xem vở ghi bài của các em 
tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài kiểm tra chất lượng đầu năm. 
Cụ thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện 
trong khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã 
chọn được hai em vào nhóm một. Số còn lại tuy viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn 
còn nhiều. Riêng nhóm ba tiến triển rất chậm. 
Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế theo 
thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh thuộc 
đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, nhóm 
ba mỗi tuần tôi phụ đạo thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. 
Ngoài ra, đối với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để 
củng cố kiến thức và ôn luyện về chữ viết. 
Muốn chữ viết của các em ngày càng tiến bộ thì điều chủ yếu là người giáo 
viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen, chê đúng lúc. Có như vậy mới khuyến 
khích được hứng thú luyện viết cho các em. Việc chấm chữa bài cho các em là một 
công việc rất vất vả vì đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng tôi nghĩ 
muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho các em thì 
- 
 7 
người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà tôi đã cố 
gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các em luyện 
viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. 
Vì thế, trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Số lượng học 
sinh nhóm một đã tăng lên. Điều đó làm tôi rất mừng bởi những công sức mà thầy và 
trò đã bỏ công luyện tập. 
Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong 
các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “nên” và 
“không nên” như sau: 
- Nên: 
+ Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét (các em hay viết mất nét chữ l, g, h) 
+ Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng. 
+ Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng. 
- Không nên: 
+Viết hoa tuỳ tiện. 
+Viết thiếu nét nguệch ngoạc. 
Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết, 
tôi đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài 
lỗi mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi kiểm tra chặt chẽ 
việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức uốn nắn phù hợp hơn. Chính vì 
vậy mà các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện ở 
chỗ chữ viết đã ít lỗi và rõ ràng hơn. 
Cùng với việc chấm chữa bài và các hình thức uốn nắn phù hợp đối với những 
học sinh trong những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa 
bài bên cạnh chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về 
chữ viết cho các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. Hay các giờ trả bài 
cũng là cơ hội để tôi rèn chữ cho các em học sinh. Sau khi trả bài, tôi yêu cầu học 
sinh xem những lỗi ở bài làm và sửa chữa lại cho đúng vào vở luyện chữ của mình. 
Nên các em cũng có thể tự đánh giá lẫn nhau về mặt chữ viết: Chữ viết của bạn đã 
đẹp và cẩn thận chưa? Bài làm có mắc lỗi nào không? Muốn sửa những lỗi đó, ta 
phải sửa bằng cách nào? Từ đó, học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho 
chính mình. 
* Đối với giáo viên: 
Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp, nghĩa là: 
Phát âm chuẩn tiếng phổ thông, vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn 
đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm 
chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc và 
phát âm của các em, nếu em nào đọc sai,tôi sẽ uốn nắn luôn. Cùng với việc làm đó, 
tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng ở địa phương các em hay mắc phải để chú ý sửa 
cho các em. Ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông đợi/ trông đợi; sâu đó/ sau đó; 
lông lanh/ long lanh; ôi nhiễm/ ô nhiễmvà chú trọng sửa những lỗi này để khi các 
em viết bài của mình thì chú ý và có thể sửa được những lỗi mình mắc phải. 
- 
 8 
Để rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ, người giáo viên khi 
viết lên bảng hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. 
Trong các bài luyện tập, tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, 
ghi vào phiếu kiểm tra những lỗi của bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là 
các em nhận biết được lỗi của bạn cũng chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối 
cùng tôi thu bài viết và cả phiếu về nhà kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu 
viết lại như lần trước. Khi phát hiện ra những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng 
cách: 
Trong một thời gian nhất định phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm hai và 
đặc biệt là nhóm ba yêu cầu sửa chữ thiếu nét xong mới yêu cầu sang lỗi khác Việc 
này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ, tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khoá 
trên lớp. Cùng với những biện pháp trên, khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp 
luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho 
phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và học sinh. Đối với học sinh, phải chú ý vào 
những lỗi để tự uốn nắn và sửa chữ cho chính mình nhằm làm chữ viết ngày càng đẹp 
hơn và không sai lỗi chính tả. 
Như các bạn đã biết, chương trình Ngữ Văn lớp 6 chỉ có hai tiết ít ỏi nằm trong 
Chương trình địa phương- phần Tiếng Việt- Rèn luyện chính tả. Ngoài những biện 
pháp trên, tôi còn cố gắng rèn chính tả cho học sinh trong hai tiết học này và trong 
những giờ luyện tập phân môn Tiếng Việt: 
Ví dụ: Ở tiế 70 của học kì I, tôi chủ yếu rèn cho học sinh lỗi sai chính tả các 
phụ âm đầu, thường viết sai: 
* Phân biệt l / n: Lỗi sai phổ biến của miền Bắc (cả nói và viết): 
- Về mặt láy âm: l và n đối lập nhau: 
+ L láy âm rộng rãi trong Tiếng Việt: láy âm với rất nhiều âm đầu (lõm bõm, la 
cà, lạch cạch, lỉnh kỉnh, liên miên, lạo xạo, lăn tăn, lởn vởn, lom khom, lơ ngơ). 
+ N không láy âm với âm đầu nào khác mà chỉ hiệp vần đầu thôi: ( no nê, nao 
núng, nườm nượp, náo nức, nuôi nấng). 
+ Không có hiện tượng l láy với n. 
+ N chỉ láy với gi và với nguyên phần vần mà không có âm đầu: (gian nan, 
gieo neo, giãy nảy, áy náy, ảo não). 
- Về từ đống nghĩa: Có khoảng 40 từ đồng nghĩa thành cặp l- nh: (lài- nhài, lỡ- 
nhỡ, lầm- nhầm). 
* Phân biệt ch/ tr: Riêng ở miền Bắc khi nói không phân biệt rõ ràng. 
- Khả năng kết hợp: 
+ Ch đứng trước vần: oa, oe, oăt, ăt còn tr thì không: (choàng khăn, vàng chóe, 
loắt choắt, chắt lọc). 
- Về mặt láy âm: ch và tr không láy âm với nhau, chỉ điệp âm đầu: (trơ trụi, trì 
trệ, trục trặc, trầm trồ, trằn trọc; chập choạng, chững chạc, chắt chiu, chăm chú, 
chênh chếch) 
* Phân biệt s/ x: Ở miền Bắc khi nói không phân biệt rõ ràng. 
- Khả năng kết hợp: 
- 
 9 
+ S không dứng trước vần: oăn, oe, uê. Còn x thì kết hợp được: ( xuê xoa, xoắn 
thừng, xun xoe) 
- Về láy âm: 
+ s và x không láy âm với nhau mà chỉ hiệp vần đầu: (sung sướng, sỗ sàng, 
sững sờ; xao xuyến, xàm xỡ, xấp xỉ). 
+ X láy âm với âm đầu khác: liểng xiểng, bờm xờm, xoi mói, xích mích, lộn 
xộn). 
* Phân biệt d/ r/ gi: 
- Khả năng kết hợp: 
+ R và gi không đứng trước vần: oa, oăn, uê, uy. Còn d thì kết hợp được (dọa 
nạt, dây thừng, hậu duệ, duy trì). 
- Về mặt láy âm: 
+ R, gi, d đều không láy âm với nhau mà chỉ điệp âm đầu. 
+ R thường tạo thành từ láy mô phỏng âm thanh: rả rích, rì rầm, rào rào, rên rỉ, 
róc rách; còn d và gi thì không. 
+ D láy âm với l nhiều: lai dai, lim dim, lò dò 
+ R láy âm với l: lầm rầm, lắc rắc, leng reng; ngoài ra r còn láy âm với b, k, 
c: (bứt rứt, bịn rịn, ) 
+ Còn gi thì không. 
Sau đó tôi cho học sinh bài tập thêm để về nhà rèn luyện nhằm phân biệt các 
phụ âm đầu trên. Từ đó các em viết đúng và dùng từ sẽ chính xác hơn. Vì thời gian 
rèn chính tả ở trên lớp có hạn nên tôi phô-tô tài liệu cho các em về nhà làm. 
Còn về tiết 89 ở học kì II, ngoài nội dung kiến thức bài học, tôi còn lập sổ tay 
chính tả để cung cấp cho học sinh. Sau đây, tôi xin minh họa một phần trong sổ tay 
chính tả (phân biệt l/ n) mà tôi đã cung cấp cho các em: 
Stt Từ có âm đầu là l Stt Từ có âm đầu là n 
1 la liệt le lói 1 nài nỉ nương náu 
2 la liếm lem luốc 2 não nùng áy náy 
3 là là lém lỉnh 3 nạt nộ nằng nặng 
4 là lạ lén lút 4 này này ẩn nấp 
5 là lượt leo lẻo 5 này nọ nắn nót 
6 lả lướt lịch lãm 6 nấu nướng nịnh nọt 
7 lá lẩu loang loáng 7 nây nẩy nặng nợ 
8 lạ lẫm long lanh 8 nể nang nơi nơi 
9 lạc loài lỏng lẻo 9 nèn nã nơm nớp 
10 lạc lõng lúc lỉu 10 nỉ non nòng nọc 
11 lai láng lưu loát 11 niềm nở 
12 lam lũ la lối 12 nói năng 
13 lanh lẹ lanh lảnh 13 non nước 
14 lành lạnh lão luyện 14 nõn nà 
15 lảnh lót lắc lư 15 nóng nảy 
- 
 10
16 lạnh lẽo lặng lẽ 16 nóng nực 
17 lạnh lùng lăn lóc 17 nôn nào 
18 lau lách lây lan 18 nôn nóng 
19 làu làu len lén 19 nồng nàn 
20 láu lỉnh lề lối 20 nồng nặc 
21 lắm lắm lê la 21 nũng nịu 
22 lăn lộn lưu lạc 22 núng nính 
23 lắt lay liến láu 23 nung núc 
24 lắt léo lẳng lặng 24 nuôi nấng 
25 lâm li lảnh lót 25 nức nở 
26 lầm lì lầy lội 26 nứt nẻ 
27 lầm lỗi lả lơi 27 nườm nượp 
28 lầm lỡ 28 na ná 
29 lẫm liệt 29 não nề 
30 lấm láp 30 náo nức 
31 lấm lét 31 nắc nẻ 
32 lần lượt 32 nặc nô 
33 lẫn lộn 33 năn nỉ 
34 lấp lánh 34 nặng nề 
35 lấp ló 35 nây nây 
36 lấp loáng 36 nem nép 
37 lấp lửng 37 nen nét 
38 lập lòe 38 nề nếp 
39 lật lọng 39 nôm na 
40 lầu lầu 40 nuột nà 
41 lẫy lừng 41 nể nang 
 Ngoài ra tôi còn chú ý rèn chính tả cho các em trong các giờ luyện nói ở trên lớp. 
Điều đó giúp các em không chỉ khi nói mà còn khi viết để các em có vốn tiếng Việt 
chính xác hơn. Song song với đó, ở các giờ học phân môn văn bản, tôi cũng rất coi 
trọng phần đọc của các em; trong giờ học phân môn Tiếng Việt, ở mỗi phần luyện tập 
đều có bài tập cuối cùng là rèn nghe- viết chính tả nên tôi đều chú ý nhắc nhở học 
sinh làm bài. Chính vì vậy mà gần hết năm học này, tôi nhận thấy việc làm của tôi đã 
có tín hiệu đáng mừng. 
5. Kết quả ngiên cứu: 
Cứ bằng các biện pháp như trên, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên tục 
luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất nhiều. 
Cụ thể như sau: 
Cuối học kì I năm học 2014-2015, các em đã được thầy cô giáo dạy lớp 6A 
khen ngợi về chữ viết tương đối đẹp, dễ đọc, rõ ràng, ít lỗi chính tả và trình bày sạch, 
đẹp. 
- 
 11
Có được kết quả như vậy phải kể đến sự kiên trì, quyết tâm luyện tập của học 
sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ bảo ân cần, nhẹ nhàng của giáo viên và sự giám 
sát kiên quyết của các bậc phụ huynh. 
Học kì I kết thúc rồi sang giữa học kì II, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng về 
chữ viết của các em theo bảng sau: 
Bảng khảo sát chữ viết của học sinh- lớp 6A (Năm học: 2014- 2015) 
(Sĩ số: 36 học sinh: 22 nam; 14 nữ) 
Nhóm Đầu năm Giữa kì I Cuối kì I Giữa kì II Ghi 
chú 
 Số 
lượng 
Tỉ 
lệ(%) 
Số 
lượng 
Tỉ 
lệ(%) 
Số 
lượng 
Tỉ 
lệ(%) 
Số 
lượng 
Tỉ 
lệ(%) 
1 10 27,7 12 33,2 13 36,1 15 41,7 
2 16 44,6 16 44,6 17 47,2 16 44,6 
3 10 27,7 8 22,2 6 16,7 5 13,7 
Vậy theo bảng trên, đến giữa học kì II thì: 
Nhóm 1: có 15 em chữ viết đảm bảo (tăng 14% so với đầu năm).

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_dung_chinh_ta_trong_m.pdf