1. Lí do chọn đề tài.
Đảng nhận định “ Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Nền tảng có chắc có vững thì toàn hệ thống mới tạo nên cấu trúc bền vững và phát triển
hài hòa. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm “ Hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài, về tình cảm, trí tuệ, thể chất và kĩ năng cơ bản”.
Giáo dục tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan
trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành người công dân tốt trong giai đoạn mới.
Chúng ta biết rằng: “ Nhân cách của con người chỉ có thể hình thành thông qua hoạt
động giao tiếp”. Để xã hội tồn tại và phát triển, giao tiếp được thuận tiện, mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia đều có ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và trong bậc tiểu
học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy là mối quan tâm chung của toàn xã hội.
Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục này sẽ góp phần quan trọng trong việc thực hiện
mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục, đào tạo con người mới, con người lao động, tự chủ
sáng tạo có kỉ luật có năng suất lao động cao trong sự nghiệp công nghiệp hiện đại hóa đất
nước đòi hỏi những chủ nhân tương lai vừa giỏi năng lực chuyên môn, vừa có nhân cách
tốt. Để làm việc này ngành giáo dục có sự thay đổi nội dung chương trình để nâng cao
chất lượng dạy và học. Phân môn Tập đọc không nằm ngoài vấn đề đó.
với những từ còn lại, nếu có học sinh nào chưa hiểu, GV giải thích riêng cho HS đó hoặc tạo điều kiện để học khác giải thích giúp, không nhất thiết phải đưa ra giảng chung cho cả lớp. b.Cách hướng dẫn tìm hiểu nghĩa của từ ngữ: GV có thể giải nghĩa,nêu ví dụ cho HS hiểu hoặc gợi ý cho HS làm những bài tập nhỏ để tự nắm nghĩa của từ ngữ bằng một số biện pháp sau: -Đặt câu với từ ngữ cần giải nghĩa -Tìm những từ đồng nghĩa với từ ngữ cần giải nghĩa. -Tìm những từ trái nghĩa với từ ngữ cần giải nghĩa. -Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ ngữ cần giải nghĩa. Ngoài ra, cũng có thể giúp học sinh nắm nghĩa của từ bằng đồ dùng dạy học( hiện vật, tranh vẽ, mô hình..) Điều 10 cần chú ý là dù giải nghĩa từ theo cách nào cũng chỉ nên giới hạn trong phạm vi cụ thể ở bài đọc, không mở rộng ra những nghĩ khác nhất là những nghĩa xa lạ với HS lớp 2. * Hướng dẫn tìm hiểu nôi dung bài: a.Phạm vi nội dung cần tìm hiểu -Nhân vật ( số lượng, tên, đặc điểm), tình tiết của câu chuyện; nghĩ đen và những nghĩa bóng dễ nhận ra của các câu văn, câu thơ. -Ý nghĩa của câu chuyện, của bài văn, bài thơ. b.Cách tìm hiểu nội dung bài đọc: Tìm hiểu nội dung bài đọc thể hiện ở những câu hỏi đặt sau mỗi bài. Dựa vào hệ thống câu hỏi đó GV tổ chức sao cho mỗi HS đều được làm việcđể tự mình nắm được nội dung bài. Để giúp HS hiểu bài GV cần hỏi những câu hỏi phụ, những yêu cầu , những lời giảng bổ sung. Sau khi HS nêu ý kiến, GV sơ kết nhấn mạnh ý chính. Trong quá trình tìm hiểu bài GV cần chú ý rèn cho Hs cách trả lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn gọn rõ. II.5.3.Hướng dẫn đọc và học thuộc lòng: a.Luyện đọc thành tiếng: -Luyện đọc thành tiếng bao gồm các hình thức: Từng HS đọc cá nhân(CN), một nhóm (cả bàn, cả tổ ), thỉnh thoảng rèn đọc đồng thanh (ĐT), một nhóm HS đọc theo phân vai. Nhất là phương pháp giáp dục của chúng ta giúp cho HS tích cực hơn trong học tập dần dần cả tỉnh chúng ta sẽ hướng dẫn các em theo chương trình VNEN, tổ khối chúng tôi cũng mạnh dạn đưa vào vài hình thức học theo chương trình VNEN. Vì thế trong việc luyện đọc cho HS , GV cần biết nghe HS đọc để có cách hướng dẫn thích hợp với từng emvà cần khuyến khích HS trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được, chỗ chưa được của bạnnhằm giúp HS rút kinh nghiệm để đọc tốt hơn.. b.Luyện đọc thầm: Dựa vào SGK, GV giao nhiệm vụ cụ thể cho HS nhằm định hướng việc đọc hiểu ( Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào? Đọc để biết, hiểu , nhớ điều gì?....) Có đoạn văn (thơ) cần cho HS đọc thầm 2,3 lượt với thời gian nhanh dần và thực hiện nhiệm vụ. Yêu cầu từ dễ đên khó, nhằm trau dồi kĩ năng đọc hiểu. Cần khắc phục trình trạng học 11 sinh đọc thầm một cách hình thức. GV không nắm được kết quả đọc hiểu của HS để xử lý trong quá trình dạy học. c.Luyện học thuộc lòng: Ở những bài dạy có yêu cầu HTL, GV cần chú ý HS luyện đọc kĩ hơn( bước đầu diễn cảm); có thể ghi bảng một số từ làm “ điểm tựa” Để HS tự nhớ và đọc thuộc toàn bộ; hoặc tổ chức cuộc thi hay trò chơi luyện HTL một cách nhẹ nhàng, gây hứng thú cho HS. II.5.4.Ghi bảng: Nội dung ghi bảng càn phải ngắn gọn, xúc tích đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Hình thức trình bày bảng mang tính thẩm mĩ, có tác dụng giáo dục học sinh.Việc ghi bảngcần được kết hợp nhẹ nhàng với tiến trình dạy học nhằm đem lại hiệu quả trực quan tốt nhất. Ngoài các biện pháp thông thường trên để từng bước cập nhật chương trình dạy học theo mô hình mới VNEN khối chúng tôi cũng từng bước thực dạy học theo mô hình trên cũng không thiếu phần: II.5.5.Phối hợp giáo dục tay ba: Sau khi đi sâu tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng em học sinh. Tôi thấy trình độ và cũng như sự hiểu biết của phụ huynh cũng còn hạn chế nên việc giúp các em học cũng khó khăn. Vì thế sau khi họp phụ huynh, tôi thông qua kết quả việc đọc của các em cho PH nghe và phổ biến một số yêu cầu giúp các em học tốt môn tập đọc. Ví dụ: PH chỉ cần chịu khó ra ít thời gian ở nhà yêu cầu các em đọc một bài tập đọc ít nhất là 10 lần, sau đó có thể cho các em đọc cho mẹ nghe truyện tranh, truyện thiếu niên sau dần đọc báo cho cả nhà nghe Cứ như thế tôi luôn kết hợp phương pháp giáo dục tay ba: gia đình, nhà trường và xã hội để nâng cao chất lượng học tập cho các em. Trong quá trình dạy trên lớp tôi luôn quan tâm giúp đỡ các em như tranh thủ giờ ra chơi giúp các em rèn đọc bằng cách cùng đọc truyện cho nhau nghe Còn phía bản thân, tôi luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề, đầu tư nghiên cứu tài 12 liệu dạy học và các tài liệu tham khảo khác. Nghiên cứu thiết kế bài dạy một cách cụ thể, có khoa học. Tìm hiểu nội dung bài dạy trước khi lên lớp. Cụ thể như thế qua dự giờ vài tiết dạy theo chương trình VNEN qua đồng nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn hè và qua học hỏi trên mạng.Tôi dựa vào đó để hình thành xây dựng vài tiết học theo chương trình VNEN và nhận thấy có một số ưu điểm như sau: Theo quan sát thực tế của chúng tôi tại một giờ học của học sinh, do đã quen với cách học mới nên trong suốt quá trình học không khí lớp học khá sôi nổi; việc trao đổi giữa học sinh và giáo viên tỏ ra đơn giản và thường xuyên; các em học sinh được chia thành các nhóm nhỏ để cùng học, khi có gì khó không thể giải đáp được, học sinh sẽ yêu cầu sự trợ giúp từ giáo viên bằng cách sử dụng thẻ cứu trợ. Sự phân công công việc trong một nhóm rất rõ ràng, mỗi người một nhiệm vụ, những học sinh yếu cũng được tham gia và bình đẳng như các bạn khác trong nhóm. Điểm khác biệt lớn nhất là trước kia để đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh sau mỗi tiết học giáo viên cũng chỉ có thể kiểm tra một vài học sinh; nhưng ở mô hình này, tất cả các học sinh đều được các bạn khác trong nhóm kiểm tra nên không xảy ra tình trạng “giấu dốt”. Nhiều em học sinh của trường cũng đánh giá là mô hình này rất thú vị, dễ học và dễ hiểu. Đầu tiên là học sinh được chủ động, sáng tạo trong việc học của mình. Các em được hoạt động theo nhóm rất vui vẻ. Giáo viên chỉ tổ chức hướng dẫn các em thực hiện các nội dung của bài học. Với cách thức hoạt động như vậy nên vai trò của GV trong lớp học chỉ là định hướng và theo dõi hoạt động nhóm của HS. Khi phát hiện có nhóm cần sự trợ giúp thì lúc đó GV mới tham gia hướng dẫn. Nói một cách khác là GV gần như là giao lớp học cho chính các em HS tự quản. Cả giáo viên, học sinh và phụ huynh đều sử dụng chung một loại sách giáo khoa nên thuận tiện trong việc trao đổi và kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh. Khi áp dụng phương pháp này, giáo viên là người vất vả nhất. Để một giờ học thành công thì giáo viên phải luôn nhạy bén, ví dụ như việc tìm ra các nhóm trưởng có học lực tốt nhất nhóm, chia các nhóm sao cho đồng đều về học lực, quan sát việc học và thường xuyên kiểm tra khả năng tiếp thu kiến thức của các em để kịp thời hỗ trợ, không phải lúc nào cũng để cho học sinh tự học”. 13 II.6. Quy trình 5 bước theo dạy học mô hình VNEN. Bước 1. Tạo hứng thú cho HS: * Yêu cầu cần đạt: - Kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của HS về chủ đề sẽ học; HS cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với họ. - Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú. * Cách làm: Đặt câu hỏi; Câu đố vui; Kể chuyện; Đặt một tình huống; Tổ chức trò chơi; Hoặc sử dụng các hình thức khác. Bước 2. Tổ chức cho HS trải nghiệm * Yêu cầu cần đạt: - Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm có sẵn của HS để chuẩn bị học bài mới. - HS trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức, những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới. * Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm thú vị, gần gũi với HS. Bước 3. Phân tích - Khám phá - Rút ra kiến thức mới * Yêu cầu cần đạt: - HS rút ra được kiến thức, cảm nhận được bài văn * Cách làm: - Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp HS thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học. - Sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, hoặc các hình thức sáng tạo khác nhằm kích thích trí tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá phát hiện của HS..... - Nên soạn những câu hỏi thích hợp giúp HS đi vào tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả. Các hoạt động trên có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng HS. luyện đọc thêm hay giờ ra chơi đọc báo cho nhau nghe. Bước 4. Thực hành - Củng cố bài học * Yêu cầu cần đạt: - HS đọc trôi chảy, lưu loát và diễn cảm một bài văn hay bài thơ. 14 - Tự tin về bản thân mình. Cách làm: - Thông qua các việc đã làm giúp học sinh trả lời được các câu hỏi trong bài qua hình thức chọn đáp án a,b,c,d Tiếp tục hướng dẫn các em đọc nhất là những em đọc yếu,GV tiếp tục quan sát và phát hiện những khó khăn của HS, giúp các em luyện đọc một cách tốt nhất. Có thể giao nhiệm vụ theo nhóm, theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ HS về nhà luyện đọc thêm hay giờ ra chơi đọc báo cho nhau nghe. Bước 5. Ứng dụng * Yêu cầu cần đạt: HS củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học. HS biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt trong những tình huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày. Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới . * Cách làm: - Mỗi HS thực hiện mô hình VNEN đến trường luôn ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động học tập như thế nào, không cần chờ đến sự nhắc nhở của GV. - Trong tài liệu hướng dẫn học, ở mỗi bài học, các hoạt động học tập đều được chỉ dẫn cụ thể và chi tiết. - Trong mỗi phòng học của VNEN đều treo 10 bước học tập II.7. Tiến trình 10 bước học tập 1. Chúng em làm việc nhóm ( nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng) 2. Em đọc tên bài học và viết vào vở 3. Em đọc mục tiêu bài học. 4. Em thực hiện hoạt động cơ bản ( nhớ xem làm việc cá nhân hay theo nhóm theo lôgô trong tài liệu). 5. Kết thúc HĐ cơ bản, em tự đánh giá rồi báo cáo những việc đã làm được với thầy, cô giáo để thầy, cô xác nhận 15 6. Em thực hiện hoạt động thực hành( Làm việc cá nhân rồi chia sẻ với bạn kề bên, với cả nhóm) 7. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo 8. Em thực hiện Hoạt động ứng dụng ( với sự giúp đỡ của gia đình, người lớn ) 9. Kết thúc bài, em viết vào Bảng đánh giá. 10. Em đã học xong bài mới em phải ôn lại phần nào? Sau đây tôi xin trình bày các bước rèn: "Đọc đúng ”, “đọc nhanh” và "đọc hiểu" cho học sinh. * Tổ chức dạy đọc đúng cho học sinh: - Chuẩn bị tâm thế đọc. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc. Khi ngồi đọc, cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 20 đến 30 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu, thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô giáo gọi đọc học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần xác định rõ tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc - tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng người đọc một lúc đóng hai vai: Một vai là người tiếp nhận thông tin, đưa văn bản đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện tái sinh văn bản. Vì vậy khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Khi đọc thành tiếng phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng: Các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo và để tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho cả lớp cùng nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc to quá hoặc gào lên. Để luyện cho những em đọc quá nhỏ (lí nhí), giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Nếu đứng đọc tư thế phải đàng hoàng, thoải mái, sách được mở rộng và cầm bằng hai tay. - Luyện đọc đúng: + Đọc đúng: Là sự tái hiện âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không được đọc thừa, không thiếu âm, vần, tiếng. Đọc đúng bao gồm phát âm 16 chính xác và đọc đúng ngữ điệu (ngắt nghỉ hơi đúng chỗ). + Luyện đọc đúng: Giáo viên phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt. Giúp học sinh có ý thức phân biệt các phụ âm đầu, dễ đọc sai theo đặc điểm cách phát âm địa phương. Đọc đúng các âm chính - đặc biệt là một số âm khó: VD: Không đọc: "yêu tiên", "con hiêu", "cấp cíu" mà phải đọc "ưu tiên", "con hươu", "cấp cứu" . Đọc đúng các âm cuối: VD: Học sinh có ý thức không đọc "thủa nào" "quai lại", "mịm màng" mà phải đọc là: " "thưở nào" "quay lại", "mịn màng". Ngoài ra đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngữ điệu câu. Cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Trong một số bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở một số câu dài để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý) mà không tính đến nghĩa, tạo ra những lỗi ngắt giọng lô gích. VD: Trường mới xây trên/nền ngôi trường lợp lá cũ. (Ngôi trường mới - Tiếng Việt lớp 2, tập 1) Hoặc trong một số bài thơ, học sinh hay mắc lỗi ngắt nhịp do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ, (tạo ra sự cân đối về mặt âm thanh khi đọc từng câu thơ). Với thơ 4 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/2, thơ 5 tiếng sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2, thơ lục bát sẽ ngắt theo nhịp chân 2/2/2 nên đã ngắt nhịp sai như: "Những ngôi/sao thức/ngoài kia/ Chẳng bằng/mẹ đã/thức vì/chúng con" (Bài Mẹ - TV lớp 2 - Tập 1) Trên thực tế, ngay cả một số giáo viên cũng còn lúng túng trong việc xác định chỗ ngắt giọng trong một câu văn hay cho ngắt nhịp trong một câu thơ. Sau đây là một số kinh nghiệm giáo viên có thể vận dụng để hướng dẫn học sinh ngắt, 17 nghỉ hơi cho đúng. Khi ngắt giọng trong một câu văn hay ngắt nhịp trong một câu thơ cần đảm bảo nguyên tắc: Dựa vào quan hệ cú pháp và nghĩa sẽ giúp chúng ta xác định cách ngắt nhịp đúng. Ví dụ: Câu: "Những bông hoa mầu xanh / lộng lẫy dưới ánh mặt trời buổi sớm" (Bài Bông hoa niềm vui - TV lớp 2 - Tập 1). không ngắt: "Những bông hoa/ màu xanh lộng lẫy dưới ánh mặt trời buổi sớm"... Từ sự phân tích trên, ta thấy khi xây dựng kế hoạch bài dạy cho một tiết Tập đọc, giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định và chỉ ra được những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài. Tuy nhiên, với từng bài cụ thể, ngoài việc dựa vào một số nguyên tắc ngắt giọng khi đọc trên đây, chúng ta cũng phải tính đến việc ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật của tác giả. Để hiểu và ngắt giọng cho đúng. Ngoài ra, việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đọc lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể. Với câu cầu khiến cần phải nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cần khiến khác nhau. Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm. - Trình tự và biện pháp luyện đọc đúng: Để giúp học sinh có thể đọc đúng toàn bài, giáo viên có thể tổ chức luyện đọc đúng cho học sinh thông qua nhiều bước từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp: + Luyện đọc từ "ngữ" khó. + Luyện đọc câu "liên câu" + Luyện đọc đoạn. Để tổ chức tốt một giờ dạy tập đọc trên lớp, khi chuẩn bị bài ( xây dựng kế hoạch bài dạy) giáo viên phải dự tính những lỗi phát âm mà học sinh lớp mình, vùng mình hay mắc phải để xây dựng phương án dạy học phù hợp, luyện đọc có trọng tâm (đúng những từ ngữ thực sự khó đọc - học sinh hay nhầm lẫn). Ví dụ: Ở Quảng Ninh hay mắc các lỗi phát âm như: Lẫn âm l, n không phát âm chính xác ba âm tr, r, s. 18 Để rèn đọc đúng cho học sinh, trong các tiết tập đọc ta thường dùng hình thức đọc thành tiếng. Vì dùng hình thức này, giáo viên dễ dàng theo dõi và uốn nắn kỹ năng đọc đúng cho học sinh. Đầu tiên là giáo viên đọc mẫu, sau đó học sinh luyện đọc từ, câu, rồi đến luyện đọc đoạn, cả bài, các bước dậy đi dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp thông qua nhiều vòng hoạt động và nhiều hình thức phong phú như đọc nối tiếp từng câu, đọc nối tiếp từng đoạn, đọc cá nhân, đọc đồng thanh có tác dụng thay đổi nhịp điệu giờ học, tạo hứng thú và luyện đọc cho học sinh, tránh được sự nhàm chán do phải kéo dài một hình thức luyện đọc. * Luyện đọc nhanh: - Đọc nhanh :( Còn gọi là đọc lưu loát) Là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, không ngắc ngứ, vấn đề tốc độ chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (không vừa đọc vừa đánh vần - đây là một trong những mục tiêu của các bài tập đọc lớp 2). Tốc độ đọc phải đi song song với sự tiếp nhận có ý thức về bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì đọc phải xác định tốc độ nhanh, nhưng để cho người nghe kịp hiểu được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ đọc chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng là trùng hợp với tốc độ của lời nói (khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn.) - Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh theo tốc độ đã định. Ngoài ra giáo viên còn có thể điều chỉnh tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc. Khi học sinh đọc thầm giáo viên có thể xem học sinh đọc đến đâu để kiểm tra tốc độ đọc thầm. Giáo viên có thể đo tốc độ bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Việc rèn đọc nhanh cho học sinh phải thường xuyên trong các tiết tập đọc. Nếu có em nào đọc chậm, chưa đảm bảo tốc độ thì giaó viên cũng cần quan tâm dành nhiều cơ hội cho 19 em đó được luyện đọc trong các tiết tập đọc. * Dạy đọc hiểu: - Đọc hiểu (hay còn gọi là khả năng thông hiểu văn bản đọc) ở đây muốn nói đến kỹ năng làm việc với văn bản chiếm lĩnh được văn bản ở các mức độ khác nhau như: Nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề... cụ thể đối với lớp 2 là các em nắm được các nhân vật (số lượng, tên, đặc điểm); tình tiết của câu chuyện, nghĩa đen và nghĩa bóng đễ nhận ra của các câu văn (câu thơ). Nắm được ý nghĩa của bài đọc . Khi dạy đọc đúng chúng ta chủ yếu sử dụng biện pháp đọc thầm. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong này theo hai bước. Bước 1: Đọc to -> nhỏ -> nhẩm. Bước 2: (đọc thầm): đọc bằng mắt theo que chỉ hoặc ngón tay -> đọc chỉ có mắt di chuyển. Giáo viên cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn, bài. Học sinh đọc xong thì báo cho giáo viên biết để giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc thầm. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản. Tuy nhiên để hiểu những gì được đọc cần phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu. Từ đó hiểu được nội dung của cả đoạn, rồi cả bài. Việc chọn từ nào để giải thích phụ thuộc vào đối tượng học sinh. Giáo viên cần nắm vững đối tượng học sinh để lựa chọn từ giải thích cho phù hợp: (Có những từ khó đối với học sinh Thành phố nhưng không khó với học sinh nông thôn hoặc ngược lại). - Biện pháp dạy đọc hiểu: Hiểu từ là bước quan trọng trong dạy đọc - hiểu, phần lớn những từ khó trong bài đọc được chú thích trong sách giáo khoa. Tuy nhiên sử dụng phần chú thích nghĩa của từ trong sách gíáo khoa như thế nào? Trong nhiều tiết dạy tập đọc ở lớp 2 giáo viên thường giúp học sinh hiểu từ bằng cách để các em đọc chú thích trong sách giáo khoa. Việc nhắc lại nghĩa của từ được nêu trong chú thích nhưng không đưa những từ ngữ đó vào ngữ cảnh của văn bản chỉ mới giúp học sinh nhận biết nghĩa của từ chứ chưa thực sự hiểu nó. Hiểu từ là tự mình có thể giải thích được từ ấy, rồi có thể vận dụng điều mình có thể giải thích ấy vào việc nắm bắt nội dung văn bản đọc. Về lâu dài việc hiểu rõ ràng các từ như vậy giúp học sinh có thể sử dụng chúng một cách thích hợp trong những ngữ cảnh 20 khác. Hơn nữa không phải chú thích nào trong sách giáo khoa cũng cụ thể, rõ ràng đối với học sinh. Chẳng hạn: Đặc ân: Là ân đặc biệt. Êm đềm: Là yên tĩnh. (Bài Sông Hương - TV2 - Tập II) Hay: Chuyên cần: Là chăm chỉ. (Bài Kho báu - TV 2 - Tập II) Do vậy, giáo viên có thể giải nghĩa, nêu
Tài liệu đính kèm: