Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 2

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 2

Về những bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó tôi không áp đặt sẵn giọng đọc bài mà cho học sinh tự đọc, nêu cách đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe và sửa cách đọc của từng học sinh. Bên cạnh đó tôi còn luôn khen ngợi học sinh đọc tốt kích thích động viên học sinh khác cố gắng đọc diễn cảm như bạn.

 - Ví dụ: Cứ cuối mỗi giờ tôi lại hỏi học sinh:

+ Em thích đoạn nào trong bài nhất, em hãy đọc cho cô và các bạn cùng nghe.

+ Em hãy đọc diễn cảm cả bài văn (hoặc bài thơ)

+ Hoặc tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng kịch (đối với các bài có nhiều lời thoại)

 Làm được như vậy sẽ có nhiều em thích tham gia đọc diễn cảm.

- Đọc diễn cảm chỉ có thể thực hiện được khi học sinh đã hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm phù hợp với từng ý của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.

Ví dụ: như khi đọc

+ Đọc bài: Bà cháu - Tập đọc 2 cần có giọng đọc thể hiện tình cảm nhẹ nhàng, yêu thương thể hiện được tình yêu thương của cháu với bà.

+ Đọc bài: Tiếng chổi tre: cần phải thể hiện giọng đọc mạnh mẽ diễn tả sự chịu khó và bền bĩ của chị lao công

Tóm lại: Đọc hiểu và đọc diễn cảm là một kĩ năng rất cần thiết cho học sinh khi chuẩn bị bước lên những bậc học cao hơn cũng như khi vào đời cần có để sử dụng trong cuộc sống, nên khi rèn kĩ năng này người học cần có sự cố gắng nổ lực cao, cần có ở người dạy một kĩ năng đọc tốt, sự nhiệt thành và một chút năng khiếu thì việc rèn đọc hiểu cho học sinh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.

 

doc 23 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 1545Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Khối 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chật vật với khối lượng kiến thức và thời gian đã quy định.
	- Cho dù trên lí thuyết thì học sinh sau khi đã hoàn thành chương trình lớp 1 thì phải thông thạo phần vần đọc trơn và một số kĩ năng tương đương khác. Nhưng đối với học sinh nơi tôi đang công tác với rất nhiều loại học sinh nhiều miền Nam có, miền Bắc có, miền Trung có, miền Tây có, có cả con em đồng bào dân tộc, con em của dân di cư từ nhiều nơi khác đến việc học hành chưa được quan tâm, cách phát âm không chuẩn. Dẫn đến kiến thức, kĩ năng đọc của học sinh chưa đạt yêu cầu. Mặt khác, ở lớp dưới đôi khi giáo viên còn nương tay khi đánh giá, cho điểm chưa sát còn du di vì học sinh dân tộc.
	- Mặc dù, đã có nhiều lần cải cách chỉnh lí chương trình sách giáo khoa cũng như đổi mới, phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy tập đọc nói riêng nhưng việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 vẫn có nhiều hạn chế:
	 + Giáo viên nặng về truyền đạt, hay sa đà vào lối giảng văn. Nhiều giáo viên chưa có thói quen tự rèn đọc cho bản thân, đôi khi có những bài văn, bài thơ giáo viên chưa thực sự đọc diễn cảm theo đúng ý đồ của tác giả. 
	+ Quen sử dụng phương pháp truyền thống, không gây hứng thú học tập cho học sinh
	+ Không xây dựng cho học sinh thói quen tham gia tìm hiểu cách đọc bài.
	+ Học sinh chưa có thói quen đọc sách, truyện hoặc đọc bâng quơ mà không cần biết mình đã đọc gì, câu chuyện trên dạy ta điều gì.
	+ Có một số bài tập đọc khá dài ảnh hưởng đến thời gian luyện đọc trên lớp của học sinh.	
+ Nhiều giáo viên coi nhẹ giờ tập đọc, chú trọng nhiều đến việc luyện toán, luyện văn
Vì những lí do nêu trên mà việc dạy đọc và chất lượng đọc bị ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh
	Đề tài nghiên cứu là “Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2” nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học tập đọc cho học sinh lớp, nhằm rèn kỹ năng đọc thành tiếng, đọc thầm (đọc hiểu), đọc diễn cảm nhằm đề xuất một số phương pháp để nâng cao hiệu quả của việc dạy học tập đọc cho học sinh lớp 2 và để đạt được mục đích này tôi giải quyết một số nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 2.
+ Đề xuất một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả của dạy học tập đọc cho học sinh lớp 2. 
C. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 
Phạm vi nghiên cứu: Để nắm bắt được kết quả trong quá trình nghiên cứu dạy phân môn tập đọc lớp 2 qua 2 khâu luyện đọc cho học sinh và hướng dẫn cho học sinh cảm thụ văn học. Tôi đã thực hiện nghiên cứu ở 2 lớp 22 và 23. 
D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 
 1/ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế dạy học ở khối 2.
2/ Phương pháp điều tra thực tế dự giờ.
3/ Phương pháp thực nghiệm dạy học.
4/ Phương pháp khảo sát thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp. 
Phần II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Như đã trình bày thì việc dạy đọc cho học sinh là một việc làm rất cần thiết và quan trọng ở bậc tiểu học. Nhưng dạy như thế nào để mang lại hiệu quả cao, đồng đều đối với học sinh quả là một vấn đề không hề đơn giản. Ở đây người viết không có tham vọng lớn mà chỉ mong cải thiện những vướng mắc để giúp học sinh được tiến bộ dần lên trong quá trình học tập và rèn luyện của mình.
- Theo bản thân tôi để dạy đọc tốt phần đọc cho học sinh trước hết là giáo viên cần phải biết và nắm rõ đối tượng mà mình đang giảng dạy các em cần gì? Sai sót chỗ nào? Cần khắc phục những sai sót đó ra sao? (Chẳng hạn: học sinh yếu kém cũng như bệnh nhân đang mắc bệnh, bác sĩ cần kê đúng toa, cho đúng thuốc thì bệnh nhân mới thuyên giảm. Còn với những học sinh trung bình cũng như người bình thường cần tăng thể lực để cho sức khoẻ được tráng kiện hơn) nên bước đầu tiên tôi bắt tay vào việc rèn đọc là:
*Kiểm tra đánh giá phân loại học sinh.
 - Đầu năm học thông thường nhà trường tổ chức kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh để có biện pháp bồi dưỡng và đánh giá học sinh. Nhưng thường các bài khảo sát của nhà trường đầu năm là bài kiểm tra viết ít chú trọng đến bài tập đọc, cho dù có cũng chỉ đánh giá ở thang điểm 5. Nhân dịp kiểm tra này tôi thảo luận cùng các đồng nghiệp cho học sinh khảo sát phần tập đọc một bài riêng với thang điểm 10 vừa lấy tài liệu cho khối vừa lấy cơ sở đánh giá kĩ năng đọc và có biện pháp rèn đọc kịp thời ngay từ đầu năm cho các đối tượng học sinh đọc tốt, khá, trung bình hoặc đọc yếu kém.	
- Về cơ bản tôi đã phân loại học sinh theo kĩ năng đọc theo các dạng sau:
+ Học sinh đọc yếu kém.
+ Học sinh đọc trung bình.
+ Học sinh đọc trên trung bình nhưng còn một số thiếu sót (ngắt nghỉ sai, có hướng đọc diễn cảm nhưng chưa chính xác).
+ Học sinh đọc khá tốt.
* Phương pháp rèn đọc cho học sinh đọc yếu kém:
- Học sinh đọc yếu thường có tâm lí chung là ngại đọc, lúng túng khi được gọi đọc hoặc kiểm tra đọc do vậy cần chú ý tới tạo tâm thế cho học sinh trước khi đọc: tư thế đọc của học sinh, đứng hoặc ngồi cần ngay ngắn, cầm sách bằng hai tay, sách phải được mở rộng, khoảng cách từ mắt đến tay phải từ 30 - 35cm. Khi thầy gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. 
 	Giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu khi đọc thành tiếng không phải để cho cô giáo, thầy giáo nghe mà cả lớp cùng nghe nên cần đọc đủ cho cả lớp nghe rõ. Nhưng cũng không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên, ở điểm này giáo viên cần kiên nhẫn động viên các em luyện tập để chất lượng đọc ngày càng tốt hơn.
- Học sinh đọc yếu kém còn là những học sinh có kĩ năng đọc thành tiếng chưa đạt ở mức độ thứ nhất tức là mức độ đọc đúng. Chẳng hạn, học sinh đọc còn ê a ngắc ngứ, đọc lí nhí đọc còn sai nhiều ở chữ cái và âm tiết Tiếng Việt, chưa có khả năng đọc đúng các thể loại văn bản khác nhau.
- Học sinh dân tộc thường đọc chậm, thêm dấu, bỏ dấu (thêm dấu huyền hoặc bỏ dấu huyền, thêm dấu nặng) không đúng với văn bản đọc:
 Chẳng hạn: 
	 từ “trời tối” đọc là “chời tối”,
 “so sánh” đọc là “xo xánh”.
 “giã giò” đọc là “dả dò” 
	“Hòanh hành” đọc là “hoàn hành”
	“rõ ràng” đọc là “gõ gàng”
	“lăn tròn” đọc là “lăng tròn”
- Đối với dạng học sinh sai kiểu này tôi thường chú trọng đến việc luyện đọc và phát âm đúng. Tức là phải thường xuyên luyện theo mẫu (mẫu của thầy và mẫu của bạn), thông qua cách phát âm của giáo viên học sinh được trực tiếp quan sát và bắt chước theo, học sinh sẽ nhanh chóng học được cách phát âm đúng tiếng, đúng từ và tròn câu. 
 	Thông qua các tiết học như Luyện từ và câu (trong các tiết tìm từ đặt câu), Chính tả (trong phần tìm và viết lại từ dễ lẫn) hoặc trong các phần phân tích mẫu minh hoạ ngắn của các môn học tôi thường ưu tiên cho dạng học sinh này đọc và phân tích kĩ, sửa sai và nhắc nhỡ kịp thời để học sinh có cơ hội sửa chữa, những học sinh có tiến bộ tôi thường biểu dương để những học sinh khác học tập và có hướng phấn đấu, sửa sai.
 	Chẳng hạn, trong những bài tập đọc (Tuần 3 Tiết ) luyện từ và câu – Tập làm văn 2 tiết/ tuần.
Trong bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió” Tập đọc Tuần 20 có các từ: rõ ràng, hòanh hành, dõng dạc.
- Sau khi học sinh có tiến bộ tôi tiếp tục ưu tiên luyện đọc cho học sinh thông qua các bài đọc dễ, có từ tương đối dễ đọc và có câu ngắn như các bài thơ, văn vần có câu ngắn dễ đọc và nâng dần độ khó ở giai đoạn sau.
 	+ Bài: SƯ TỬ XUẤT QUÂN
Sư tử bàn chuyện xuất quân/
Muốn sao cho khắp thần dân trổ tài/
Nhỏ to khỏe yếu muôn lòai/
Ai ai cũng được/ tùy tài lập công/
	+ Bài: ĐÀN GÀ MỚI NỞ
Con mẹ đẹp sao/
Những hòn tơ nhỏ/
Chạy như lăn tròn/
Trên sân trên cỏ/
.
Đây là những bài thơ có câu ngắn dễ đọc,dễ phát âm học sinh yếu sẽ có cơ hội đọc đúng và tự tin hơn. Sau đó tôi nâng dần độ khó với những bài văn bài thơ khác như:
 + Bài : Gió
Gió ở rất xa/ rất rất xa
Gió thích/ chơi thân/ với mọi nhà/
 Gió cù khe khẽ /anh mèo mướp/
 Rủ đàn ong mật/ đến thăm hoa//
 Gió đưa những cánh diều/ bay bổng//
 Gió ru cái ngủ/ đến la đà//...........
 Từ việc nâng dần độ khó cho học sinh yếu, các em sẽ cải thiện được khả năng đọc của mình, có hứng thú hơn với phân môn tập đọc.
* Rèn cho những học sinh có mức đọc trung bình:
 Những học sinh đọc trung bình tức là những học sinh đọc tương đối đạt về tốc độ so với học sinh lớp 3 khoảng từ 20 – 25 chữ/phút. Tuy nhiên, vẫn còn một số sai sót về chữ cái và âm tiết tiếng Việt.
 Do tiếng Việt có nhiều phương ngữ nhiều địa phương có cách phát âm khác nhau ít nhiều ảnh hưởng đến cách phát âm đúng chuẩn của học sinh. 
Ví dụ: Học sinh đọc sai các âm vị là phụ âm đầu trong tiếng Việt như “cái nón” đọc thành “cái lón”; “lúa nếp” đọc thành “ núa nếp”, là sai do không phân biệt được cặp phụ âm l/n.
	- Đọc không phân biệt được sự khác nhau giữa các âm vị là nguyên âm giữa vần. 
Ví dụ: “lúa chiêm” đọc thành “lúa chim”, “quả chuối” đọc thành “quả chúi”, là không phân biệt được hai âm vị nguyên âm giữa vần i/iê  u/uô 
Đọc không phân biệt các âm vị là phụ âm cuối vần. 
Ví dụ: “sướt mướt” đọc thành “sước mước”  
Đọc không phân biệt được các thanh điệu ?/~. 
 Ví dụ: “lãng đãng” đọc thành “lảng đảng”, “ngựa gỗ” đọc thành “ngựa gổ”,
	Đối với những học sinh thường đọc sai theo các dạng đã nêu trên việc rèn cho học sinh là tương đối khó, vì đây là những lỗi sai do cách phát âm ảnh hưởng phương ngữ. Tuy nhiên, giáo viên cần rèn luyện cho mình cách đọc đúng chuẩn để làm mẫu và sửa sai cho học sinh. Ngoài ra, giáo viên cũng có thể dùng những học sinh đọc tốt phát âm chuẩn làm mẫu cho học sinh này noi theo. Khi học sinh đọc sai giáo viên cần sửa sai ngay tại chỗ, nếu học sinh làm chưa thật tốt giáo viên ghi vào sổ ghi chép hàng ngày để có biện pháp hỗ trợ vào dịp khác.
	- Ngoài ra, tôi cũng thường luyện cho học sinh đọc đúng các từ có âm đầu dễ lẫn như: Làm việc, nó nói, phụ nữ, phụ lão, cá rô, khoẻ khoắn, và cũng thường xuyên rèn cho học sinh đọc các âm khó như: chai rượu, con hươu, đêm khuya, lưu luyến, cái rìuv..v.. 
* Rèn đọc cho những học sinh ngắt nghỉ sai khi đọc và có hướng diễn cảm sai khi thể hiện nội dung bài đọc:
 - Đây là dạng học sinh có khả năng đọc to, rõ từ, đọc đúng chính âm phụ âm tuy nhiên còn có hạn chế về kĩ năng ngắt nghỉ chưa đúng chỗ làm cho câu từ bị gãy vụn, bị bóp méo, biến thể về nội dung văn bản. Chắc hẳn ai cũng có nghe qua câu chuyên vui kể về một học sinh đọc bài như sau: 
- Một anh thanh niên đi vào nhà/đầu đội nón lá dưới chân/đi đôi dép cao trên trán/lấm tấm mồ hôi.
- Câu chuyện trên đôi lúc như đùa nhưng đó lá một tai hại lớn cho cả người đọc lẫn người nghe, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong trường tiểu học hiên nay hiện tượng như tôi vừa nêu ra trên đây không phải là hiếm thấy mà là thường gặp,và thường gọi đó là cách đọc nhát gừng, vậy đối với trường hợp này ta phải khắc phục như thế nào?
- Như chúng ta đã biết, đọc đúng bao gồm đúng cả tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Tôi đã dựa vào nghĩa của từ và quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nhịp cho đúng các câu,nghỉ hơi giữa các cụm từ.
	- Đối với một bài thơ, bài văn, câu thơ, câu văn học sinh đọc cá nhân chưa ngắt nghỉ hơi đúng hoặc đọc sai nhiều như dạng đọc vừa vừa nêu ở trên tôi cho học sinh khác đứng tại chỗ hoặc lên bảng đánh dấu lại chỗ ngắt và cho học sinh đọc đồng thanh. Việc đọc đồng thanh trong giờ tập đọc làm cho không khí lớp học vui tươi, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh được đọc thành tiếng. Đồng thời cũng giúp đối tượng học sinh trên nhận thấy những sai sót mà mình còn vướng phải để có điều kiện sửa chữa.
	Tuỳ theo từng bài từng mức độ đọc của học sinh mà tôi cho học sinh đọc đồng thanh cả bài hoặc 1 - 2 câu văn
	- Ngoài những học sinh đọc sai kiểu nhát gừng như đã nói ở trên còn có những học sinh khi cầm sách là đọc liến thoắng (Quá nhanh) hoặc đọc như hát, như ru là những học sinh có hướng diễn cảm sai khi thể hiện nội dung bài đọc. Những học sinh này thường đọc một giọng đều đều, không lên không xuống tạo nên một không khí ảm đạm khi đọc. Tôi thường nêu lên cho học sinh thấy rằng khi đã đọc nhanh là đã có kĩ năng nhận diện mặt chữ tốt, cần khen ngợi tuy nhiên khi đọc thành tiếng là đọc cho người khác nghe vậy em cần phải chú ý xác định tốc độ cho người nghe hiểu kịp (Tốc độ cho phép tối đa là 50 tiếng/phút đối với lớp 2) và biểu đạt đúng cách đọc của từng bài.
 	- Tôi hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc thầm theo. Ngoài ra, còn dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra lẫn nhau để có nhận xét sửa chữa. Đồng thời cho học sinh thảo luận về cách đọc sau đó thống nhất và làm mẫu để học sinh noi theo.
	Ví dụ: Khi dạy bài”Mẹ”
Cho học sinh đọc 2 dòng thơ tôi hỏi học sinh cách đọc và cách ngắt nhịp
Mẹ/
Lặng rồi cả tiếng con ve/
Con ve cũng mệt/ vì hè nắng oi//
Nhà em vẫn tiếng ạ ời/
Kẽo cà tiếng võng/ mẹ ngồi mẹ ru//..
 	- Muốn học sinh đọc đúng tốc độ, có hướng diễn đạt và biểu cảm đúng nội dung văn bản cần có sự chuẩn bị tốt bài đọc ở nhà, học sinh phải đọc trước nhiều. Em nào còn chưa theo kịp cần rèn luyện thêm sau tiết dạy.
* Rèn đọc cho những đối tượng học sinh có kĩ năng đọc khá tốt:
 	- Đối với dạng học sinh này tôi chú trọng nâng cao kĩ năng đọc hiểu và đọc diễn cảm.
	* Rèn đọc hiểu:
 	- Để nắm chắc, hiểu rõ nội dung văn bản cần,cảm nhận được văn bản thì cần rèn luyện kĩ năng đọc hiểu. Luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Vì đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng là có thể nhanh từ 1,5 - 2 lần, tất cả trí tuệ tập trung vào việc tiếp nhận và thông hiểu nội dung mà không cần chú ý đến việc phát âm.
 - Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả của đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì đọc được.
 - Tôi kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài và việc luyện đọc. Hướng dẫn tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu này.
 Tôi cho 1 học sinh đọc thành tiếng đoạn 1 (cả lớp đọc thầm theo lần 1) sau đó đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Tương tự đối với đoạn 2, 3, 4 tôi đã kết hợp cho rèn đọc thầm được từ 2 lần và giải quyết song song cùng lúc việc rèn đọc và tìm hiểu bài.
	Bên cạnh đó để giúp học sinh đọc hiểu tốt tôi cũng chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh nêu lên được nội dung bài một cách khái quát, cách đọc bài. Tôi thường chú ý đến đến các câu hỏi để học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ tìm các từ gần nghĩa cùng nghĩa, trái nghĩa..
 + Ví dụ: Dạy bài “Tiếng chổi tre” 
 có câu: Những đêm đông
 Khi cơn giông 
 Vừa tắt.
- Em hiểu từ vừa tắt có nghĩa là gì? (không để ý đến) và tôi cho học sinh tập đặt câu với từ đó
- Có làm được như vậy từ việc hiểu nghĩa của từ kết hợp hiểu nghĩa của câu và toàn bài từ đó học sinh có thể tóm lược được nội dung, ý đoạn hoặc cả bài đọc mà các em vừa đọc.
- Ngoài những giờ học trên lớp, những giờ đọc truyện, đọc sách ở thư viện tôi cũng thường xuyên nhắc nhở học sinh cần phải luyện đọc thầm, không nên đọc thành tiếng khi không có yêu cầu.
	* Rèn đọc diễn cảm:
	- Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đó là việc đọc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng, cường độ..để biểu đạt đúng những ý nghĩ tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài đọc và cũng là thể hiện sự thông hiểu của người đọc đối với tác phẩm. Điều này thật ra chưa có nhiều học sinh ở bậc tiểu học làm được, vì vậy việc rèn cho học sinh kĩ năng này là một việc làm hết sức cần thiết.
	Phần III: BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
 	Qua thống kê kết quả khảo sát đầu năm của các năm học gần đây mà tôi và các đồng nghiệp đã đảm nhận như sau:
Năm học
TSHS
Khối 1
XẾP LOẠI ĐẦU NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
82
18
22
30
36.7
20
24.4
14
16.9
2008-2009
75
16
21.3
22
29.3
24
32.0
13
17.4
2009-2010
70
13
18.6
23
32.9
22
31.4
12
17.1
* Thống kê khảo sát đầu năm học trong 3 năm gần đây của lớp tôi đã dạy:
Năm học
TSHS
Lớp
2
XẾP LOẠI ĐẦU NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
30
06
20
07
23.3
11
36.7
06
20
2008-2009
27
04
14.8
05
18.5
13
48.2
05
18.5
2009-2010
33
08
24.2
05
15.2
16
48.5
04
12.1
 	Về những bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó tôi không áp đặt sẵn giọng đọc bài mà cho học sinh tự đọc, nêu cách đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe và sửa cách đọc của từng học sinh. Bên cạnh đó tôi còn luôn khen ngợi học sinh đọc tốt kích thích động viên học sinh khác cố gắng đọc diễn cảm như bạn.
 	- Ví dụ: Cứ cuối mỗi giờ tôi lại hỏi học sinh:
+ Em thích đoạn nào trong bài nhất, em hãy đọc cho cô và các bạn cùng nghe.
+ Em hãy đọc diễn cảm cả bài văn (hoặc bài thơ)
+ Hoặc tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng kịch(đối với các bài có nhiều lời thoại)
 Làm được như vậy sẽ có nhiều em thích tham gia đọc diễn cảm.
- Đọc diễn cảm chỉ có thể thực hiện được khi học sinh đã hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêmphù hợp với từng ý của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.
Ví dụ: như khi đọc 
+ Đọc bài: Bà cháu - Tập đọc 2 cần có giọng đọc thể hiện tình cảm nhẹ nhàng, yêu thương thể hiện được tình yêu thương của cháu với bà.
+ Đọc bài: Tiếng chổi tre: cần phải thể hiện giọng đọc mạnh mẽ diễn tả sự chịu khó và bền bĩ của chị lao công
Tóm lại: Đọc hiểu và đọc diễn cảm là một kĩ năng rất cần thiết cho học sinh khi chuẩn bị bước lên những bậc học cao hơn cũng như khi vào đời cần có để sử dụng trong cuộc sống, nên khi rèn kĩ năng này người học cần có sự cố gắng nổ lực cao, cần có ở người dạy một kĩ năng đọc tốt, sự nhiệt thành và một chút năng khiếu thì việc rèn đọc hiểu cho học sinh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
	Phần IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Với bản thân.
 - Tôi thấy những cách làm mà tôi nêu ra trên đây là đã tìm được hướng đúng, cách làm đúng cho việc dạy tập đọc, dạy đúng đặc trưng bộ môn, tôi rất thoải mái, tự tin khi dạy phân môn tập đọc, hứng thú khi rèn đọc cho học sinh.
- Các tiết dạy tập đọc không bị biến thành giờ giảng văn, thầy trò nghe nặng nề khô khan như trước nữa.
2. Đối với học sinh:
- Học sinh trong lớp đạt từ trung bình trở lên. Các đối tượng học sinh đều tham gia đọc rất tự tin mà không còn e ngại khi đọc trước lớp, e dè khi đọc diễn cảm ( kể cả những lúc có đông người dự).
- Không còn trường hợp đọc qua loa cho xong chuyện. Các em đã thấy được giá trị của việc đọc và ham thích đọc sách, truyện,
- Kết quả đạt được ở cuối các năm học như sau:
Năm học
TSHS
lớp 2
XẾP LOẠI CUỐI NĂM QUA KIỂM TRA KĨ NĂNG ĐỌC
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2007-2008
30
9
30.0
9
30.0
12
40.0
0
0
2008-2009
27
7
26.0
10
37.0
10
37.0
0
0
2009-2010
33
11
33.3
10
30.3
10
30.3
2
6.06
* Ghi chú: Kết quả năm học 2009 - 2010 là kết quả kiểm tra phần đọc của cuối học kì I.
Phần V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	- Là một giáo viên có hơn mười năm liên tục được phân công dạy lớp 2, tôi nhận thấy kinh nghiệm dạy học là vấn đề then chốt cho một giáo viên đứng lớp có thể dạy đạt hiệu quả cao.
- Những năm đầu cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng khi phải đối mặt với những tiết dạy tập đọc (đặc biệt là khi có Ban giám hiệu hoặc cán bộ chuyên môn Phòng GD thanh kiểm tra). Nhưng khi đã có một thời gian nhất định và đã xác định chắc chắn con đường nghề nghiệp cho bản thân tôi đã yên tâm công tác, cố gắng làm tốt công việc được giao, rèn giũa và tích lũy kinh nghiệm. Trước hết là để đảm bảo công việc cho bản thân và tròn nghĩa vụ của những người đi trước đối với thế hệ con em mà xã hội đã giao cho mình một trọng trách là “giáo dục con người”.
	- Chúng ta đã biết tập đọc là phân môn có tính công cụ. Là công cụ để học tốt các môn học khác, là công cụ để chiếm lĩnh tri thức. Mục đích của dạy đọc cho học sinh tiểu học là đọc thông và đọc hiểu. Do đó người giáo viên cần phải có tính kiên trì, cẩn thận chăm chút trong việc rèn luyện cho học sinh, mới mong có hiệu quả. Qua việc dạy đọc bản thân tô

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_khoi_2.doc