Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4

A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.Cơ sở lí luận.

Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con

người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.

Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở

nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những

câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn

luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con

người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.

Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất

yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho

tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo

dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Các môn học ở Tiểu học có

tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu,

một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành

một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn.song

song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là

rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở

hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới

trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn

trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.

pdf 16 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1259Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành
một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song
song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là
rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở
hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới
trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn
trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
2. Cơ sở thực tiễn.
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các
Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải
không ít những khó khăn. Việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính
chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh,
làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng
thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải
quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân
tôi.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như
một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn,
từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần
đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở
nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất
cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập
Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng
dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp
tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được
phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng
dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết
quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập
luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.
B. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Tìm hiểu tình hình học Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói
riêng, thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề
xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.
C. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp
nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào
hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cáhc hiệu
quả nhất.
D. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi tìm
tòi, áp dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu).
2. Phương pháp phân tích tổng hợp.
3. Phương pháp điều tra.
4. Phương pháp thực nghiệm
5. Phương pháp đàm thoại.
6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG DẠY – HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP “LUYỆN TỪ VÀ
CÂU”.
1. Đối với chương trình sách giáo khoa.
Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi
tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương
pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. 
2. Đối với giáo viên.
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở
rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn
với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học
“Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi
nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”
cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh
nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên
ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác
kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến
học sinh ngại học phân môn này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo
khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho
học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
3. Đối với học sinh.
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn
“Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. 
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện
phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm
sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính
xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó
thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc
chắn.
Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía:
Người dạy và người học. Do vậy tôi thấy rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương
pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả dạy học
được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học.
II. ĐỀ RA CÁC BIỆN PHÁP NGHIÊN CỨU, ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP 
TỔN CHỨC DẠY CÁC DẠNG BÀI TẬP “ LUYỆN TỪ VÀ CÂU”.
A. Phương pháp nghiên cứu.
Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã
hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của
học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập
“Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh
nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các
bước sau.
1. Đọc thật kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu
tố phải tìm.
 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn
luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một cách
có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả
giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có
thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là
phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các
chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn
luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm ; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành
ngữ, tục ngữ.
 - Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từng học sinh được:
Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong
thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm
hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó
là từ láy.
 - Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về
danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh. 
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu
câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định
3. Yêu cầu, mong muốn...
- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp.
Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
*Câu hỏi:
 1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được
hỏi.
2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
*Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự
2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp
và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp...
3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. 
 B. Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập “Luyện từ và câu”.
Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn
luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. 
a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh
làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho
học sinh làm việc ở lớp. Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung,
giáo viên chốt lại ý kiến đúng.
 Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học
tập. 
b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
- Ngay
- Thẳng
- Thật
Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu.
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học
sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).
Từ Từ láy Từ ghép
Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, 
ngayngắn..
Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng
tắp...
Thật Thật thà Sự thật, thẳng
thật...
Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho
học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép, sau đó giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Từ láy, từ ghép đều
là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và
giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ
ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa...
+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ...
c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp
gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
Ví dụ 1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là
danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ,
tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc
lỗi ở tìm danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp
dụng vào bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
Nhà vua: Để làm gì ?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới
nước.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước
lớp.
d. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học
sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
*Chẳng hạn dạng bài Câu kể.
 Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học
sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
Giáo viên hướng dẫn mẫu:
+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
 Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
a) Cho mượn cái bút!
b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!
c) Lan ơi, cậu cho tớ mượn cái bút một tí nhé.
Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự
trong giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu
cầu lịch sự.
2. Câu hỏi:
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già
có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
 Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng
lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u
sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn
tán sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định
câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh.
Các câu các em hỏi nhau:- Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm
- Hay cụ đánh mất cái gì?
Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
 - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp
trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị
ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào
hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu
hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
 Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em
phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.
Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong
bài tập trên ở ngoài thực tế.
Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập
mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu
của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều
đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối.
Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ
xác nhận.
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao
chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm
quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Một điều tôi cũng rất quan
tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố
cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức
cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một thời gian ôn tập cùng
thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển
biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết
các bài tập với lớp 4A do tôi chủ nhiệm.
Đề bài:
Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:
1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”
2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế” có
mấy động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
 - Tính từ
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
 - Tính từ
c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
 - Tính từ
3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì?
a. Dùng đề hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.
c. Dùng thay lời chào.
4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận
nào là chủ ngữ?
a. Thanh
b. Sự yên lặng 
c. Sự yên lặng làm Thanh.
KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC.
Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ
năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả
của việc làm đó như sau:
- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận
thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu
quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách
chủ động.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài.
Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.
- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp
lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm
tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và câu” bất
kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến
của mình.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm
được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới,
phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng
bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập
của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý:
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong
thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của
mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây
được hứng thú học tập cho các em.
- Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương
pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp
đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết
quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc
kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao
kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc
biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh.
- Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên
tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm vững việc giải
quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau:
+ Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh
cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình
thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả
giờ dạy.
+ Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính
tả

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphuong_phap_to_chuc_day_cac_dang_bai_tap_luyen_tu_va_cau_cho.pdf