Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng viết văn ở phân môn Tập làm văn Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng viết văn ở phân môn Tập làm văn Lớp 5

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến:

- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến mà tôi sẽ chia sẻ sau đây là kinh

nghiệm mà tôi đúc rút được từ thực tế giảng dạy. Có thể đề tài tôi đưa ra là

không mới nhưng tính mới, tính sáng tạo của nó thể hiện ở chỗ cách thức thực

hiện, các giải pháp giải quyết vấn đề mà tôi đưa ra. Với sáng kiến này, tôi có thể

dễ dàng làm cho học sinh bỏ quên ý thức ngại học văn hay ngại viết văn mà thay

vào đó là sự tự tin, hứng thú và có cảm hứng khi học tập làm văn.

- Khả năng áp dụng của sáng kiến là cao vì thực tế nó không đòi hỏi cả

giáo viên và học sinh phải dày công nghiên cứu và nắm bắt. Vì những giải pháp

và cách thức thực hiện tôi đưa ra đều dễ dàng thực hiện và rất gũi với cả giáo

viên và học sinh. Với sáng kiến này, chỉ đòi hỏi ở người giáo viên sự tận tụy,

lòng yêu nghề, yêu trẻ, sự linh hoạt trong quá trình giảng dạy và áp dụng các

phương pháp dạy học mà thôi.

- Mặc dù đề tài tôi đưa ra có thể là không mới nhưng giá trị và hiệu quả

của đề tài, với tôi là không nhỏ. Nó không chỉ giúp cho người giáo viên chủ

động trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức và hướng dẫn học sinh học tốt

phân môn Tập làm văn nói chung, nhất là thể loại văn miêu tả nói riêng mà nó

còn giúp cho học sinh thêm yêu thích môn học tập làm văn hơn, các em không

còn ngại mỗi khi phải viết văn nữa khi mà các kĩ năng viết văn của các em đã

thành thạo.

pdf 9 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 1362Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp rèn kĩ năng viết văn ở phân môn Tập làm văn Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h mới của sáng kiến: 
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến mà tôi sẽ chia sẻ sau đây là kinh 
nghiệm mà tôi đúc rút được từ thực tế giảng dạy. Có thể đề tài tôi đưa ra là 
không mới nhưng tính mới, tính sáng tạo của nó thể hiện ở chỗ cách thức thực 
hiện, các giải pháp giải quyết vấn đề mà tôi đưa ra. Với sáng kiến này, tôi có thể 
dễ dàng làm cho học sinh bỏ quên ý thức ngại học văn hay ngại viết văn mà thay 
vào đó là sự tự tin, hứng thú và có cảm hứng khi học tập làm văn. 
 - Khả năng áp dụng của sáng kiến là cao vì thực tế nó không đòi hỏi cả 
giáo viên và học sinh phải dày công nghiên cứu và nắm bắt. Vì những giải pháp 
và cách thức thực hiện tôi đưa ra đều dễ dàng thực hiện và rất gũi với cả giáo 
viên và học sinh. Với sáng kiến này, chỉ đòi hỏi ở người giáo viên sự tận tụy, 
lòng yêu nghề, yêu trẻ, sự linh hoạt trong quá trình giảng dạy và áp dụng các 
phương pháp dạy học mà thôi. 
- Mặc dù đề tài tôi đưa ra có thể là không mới nhưng giá trị và hiệu quả 
của đề tài, với tôi là không nhỏ. Nó không chỉ giúp cho người giáo viên chủ 
động trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức và hướng dẫn học sinh học tốt 
 2
phân môn Tập làm văn nói chung, nhất là thể loại văn miêu tả nói riêng mà nó 
còn giúp cho học sinh thêm yêu thích môn học tập làm văn hơn, các em không 
còn ngại mỗi khi phải viết văn nữa khi mà các kĩ năng viết văn của các em đã 
thành thạo. 
 5.2. Nội dung sáng kiến: 
 Phân môn Tập làm văn rất quan trọng trong chương trình dạy học ở Tiểu 
học, nó không chỉ giúp cho các em hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết 
mà còn rèn cho các em khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc 
biệt còn hình thành cho các em những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện 
đại và năng động. 
 Qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số các em biết làm 
một bài văn hoàn chỉnh nhưng trong quá trình làm bài văn các em chưa biết 
dùng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào các bài văn. 
Trong cách làm bài của các em chưa sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn 
mặc dù kiến thức này đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn chưa có sự 
liên kết chặt chẽ, không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài văn của 
các em thường miêu tả lung tung, không theo một thể thống nhất. Lúc này đây 
các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm say 
mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, những 
nhân tài có tâm hồn văn học. 
5.2.1. Thuận lợi 
- Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 được biên soạn theo các quan điểm dạy 
giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động của học sinh. 
- Sách giáo viên không trình bày kiến thức bằng những kết quả cho sẵn 
mà xây dựng hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến 
thức. 
- Giáo viên được dự giờ thăm lớp và tham dự các buổi hội thảo chuyên 
đề, hội giảng của tổ chuyên môn, của trường, của cụm trường để rút ra những 
kinh nghiệm cho bản thân. 
- Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với các em nên 
tìm hiểu và nắm bắt được những khó khăn, sai sót của các em khi làm bài văn 
miêu tả. 
- Đa số các em có khả năng tưởng tượng phong phú, biết nhìn nhận những 
hình ảnh vào tri thức và nhớ có hệ thống, các em đã biết sử dụng dùng từ đặt 
câu, viết như thế nào cho đầy đủ ý, các em lĩnh hội nhanh và biết sử dụng các 
biện pháp tu từ để đưa vào bài tập làm văn của mình. 
- Hơn nữa các em còn được học 10 buổi/ tuần nên kiến thức được nắm kĩ 
hơn. 
- Các em càng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên 
qua các bài văn, đọan văn điển hình. 
5.2.2. Khó khăn 
 5.2.2.1. Về phía giáo viên 
- Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu 
của sách mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn. 
 3
- Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc 
luyện tập ở nhà, chưa hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo... 
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng kiểm 
tra một số giáo viên cho học sinh chép bài mẫu. 
- Những tiết trả bài viết giáo viên trả bài cho các em và nêu một số lỗi, 
chữa bài qua loa, chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu, 
 dùng từ sai của học sinh. 
5.2.2.2. Về phía học sinh 
- Một số học sinh vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài chu đáo trước khi 
đến lớp, thậm chí khi cần thiết chỉ chép lại bài của bạn. 
- Năng lực cảm thụ văn bản cũng như những kĩ năng phân tích đề, làm bài 
văn còn nhiều hạn chế. Không ít học sinh tỏ ra thờ ơ, ít có nhu cầu được tự bộc 
lộ cảm nhận của mình qua một tiết học hay một bài làm. 
- Kĩ năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa biết quan sát, miêu 
tả còn chung chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của từng đối tượng 
mình định tả ; chưa biết sử dụng những từ gợi tả và các biện pháp nghệ thuật 
trong bài văn ; chưa biết thể hiện cảm xúc của mình khi miêu tả. 
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế. Khi miêu tả, các em chưa biết chọn 
lọc những nét tiêu biểu để tả nên đã biến bài văn miêu tả thành bài kể lan man. 
- Các em còn thiếu sự trải nghiệm thực tế. 
 5.2.2.3. Các biện pháp thực hiện 
a) Bồi dưỡng vốn sống: 
 Khi thấy học sinh ngồi trước một đề văn khoảng 15 – 20 phút chưa viết 
được, tôi hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là 
do các em đã không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình với đối tượng 
miêu tả, kể, tranh luận, nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để 
nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của tình trạng trên là việc thiếu hụt vốn 
sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. 
 Trước hết là vốn sống trực tiếp, tôi cho các em quan sát, trải nghiệm 
những gì sẽ phải viết. Ví dụ tôi hướng dẫn các em quan sát con đường từ nhà 
đến trường hoặc một dòng sông hoặc một cánh đồng trước khi yêu cầu tả nó 
hoặc tôi tham mưu với lãnh đạo nhà trường tổ chức cho các em tham quan một 
cảnh đẹp của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham 
quan. Tất nhiên, tôi cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng 
tượng phong phú của các em. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đến mấy vẫn 
phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Khi các em tham quan hoặc quan sát, 
tôi đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong 
các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết 
những bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được tham quan. 
 Ngoài ra, trong đời sống thường ngày các em phải tiếp xúc với nhiều người 
khác nhau và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai” 
khác nhau. Chính “vai”giao tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa 
chọn chi tiết để nói, chọn ngôn từ để thể hiện. 
b) Bồi dưỡng cảm thụ văn học: 
 4
Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em. Trước hết 
tôi tạo điều kiện để các em tiếp xúc với tác phẩm, tôn trọng những suy nghĩ cảm 
xúc thực, thơ ngây của các em và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Sau đó 
tôi trang bị cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, các 
đặc trưng nghệ thuật, một số biện pháp tu từ,  Một trong những biện pháp có 
hiệu quả để bồi dưỡng cảm thụ văn học là rèn luyện cách đọc diễn cảm có sáng 
tạo. Nó giúp các em nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em 
khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương. 
Ví dụ: Rèn kĩ năng cho học sinh cách nghe để cảm thụ cái hay của bài văn 
“Hoàng hôn trên sông Hương” (Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1, trang 11) 
Trước tiên tôi đọc bài văn thật hay. 
- Cho một vài em đọc thật tốt đọc lại toàn bộ bài văn. 
- Tôi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để 
khai thác cái hay của bài. 
* Tìm phần mở bài: 
Đoạn 1: Từ “Cuối buổi chiều, ... yên tĩnh này” 
 - Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả ? 
 - Tác quan sát cảnh vật ở vị trí nào ? 
 - Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày ? 
- Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới 
thiệu vị trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới 
thiệu được nơi mà mình định tả vào thời điểm nào đó trong ngày. 
 * Tìm phần thân bài: 
- Xác định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả 
những gì? 
- Có 2 đoạn: Từ “Mùa thu,.chấm dứt” 
+ Đoạn 2: Sự thay đổi màu sắc của sông Hương từ lúc bắt đầu hoàng hôn 
đến lúc tối hẳn. 
+ Đoạn 3: Tả hoạt động của con người bên bờ sông, trên mặt sông từ lúc 
hoàng hôn đến lúc thành phố lên đèn. 
- Xác định câu mở đoạn của từng đoạn. 
 Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, sự chuyển 
ý của các câu, quá trình miêu tả về không gian, thời gian trong bài văn. 
 * Tìm phần kết bài: “Huế thức dậy trong một nhịp chuyển động mới, đi 
vào cuộc sống ban đầu của nó” : Sự thức dậy của Huế sau hoàng hôn. Tôi kết 
luận: Kết thúc bài vừa tả cảm xúc của mình vừa gây ra truyền cảm cho người 
đọc và kết bài theo kiểu mở rộng khiến người đọc cần phải suy nghĩ về cảnh 
mình tả, nơi mình tả. 
 Để làm được bài văn hay các em phải có năng lực cảm thụ văn học, kiên trì 
rèn luyện từng bước, nhất định các em sẽ viết được những đoạn văn hay, bài văn 
hay để phát hiện biết bao điều đáng quý trong văn học và trong cuộc sống của 
chúng ta. 
c) Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề 
Chương trình Tiếng Việt có các phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và 
câu, Kể chuyện, Tập làm văn làm cơ sở để các em học tốt phân môn Tập làm 
 5
văn. Tuy nhiên nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 thường không đáp ứng 
được khi dạy một thể loại Tập làm văn thì nội dung của phân môn Tập đọc và từ 
ngữ tương ứng nhằm cung cấp cho học sinh vốn từ ngữ để học thể loại này là rất 
ít. Tất nhiên chúng ta đều biết rằng vốn từ ngữ của các em được tích luỹ từ lứa 
tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và cả suốt những năm đầu ở bậc Tiểu học. Nhưng vốn từ 
ấy thực sự vẫn chưa đủ để các em làm tốt bài Tập làm văn nếu không được cung 
cấp thêm các từ ngữ theo chủ đề. Chính vì vậy để hỗ trợ các em, tôi đã soạn 
thêm vốn từ ngữ giúp các em tham khảo để làm văn. 
Ví dụ 1: Khi dạy bài tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông nước 
(Tiếng Việt 5 Tập 1, trang 74). 
Tôi giúp các em hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước. 
Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung linh, 
ầm ầm, ì ầm, rì rào, ào ào, ì oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm, lửng lơ, trườn lên, 
bò lên, cuồn cuộn, trào dâng, ào ạt, cuộn trào, điên cuồng, dữ dội, khủng khiếp, 
dềnh, đập nhẹ lên,... 
Ví dụ 2: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người: 
TẢ HÌNH DÁNG 
- Tả mái tóc: đen nhánh, đen mượt, đen mướt, nâu đen, hoa râm, muối 
tiêu, bạc phơ, mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, lơ thơ, xơ xác, cứng như 
rễ tre, dày dặn, 
- Tả vóc người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhã, tầm thước, mảnh 
khảnh, dong dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, 
vạm vỡ, trẻ trung, cân đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể 
oải, bụ bẫm, còm nhom, thanh tú, 
- Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám 
nắng, xanh xao, tái mét, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái 
xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ 
như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ 
nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, hiền 
hậu, dễ thương, phúc hậu, 
- Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, 
nõn nà, mịn màng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, 
hồng hào, đỏ thắm, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi, 
- Tả đôi mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, thâm quầng, trắng 
đục, đỏ ngầu, nâu đen, mù loà, lồi, tròn vo, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, 
mắt bồ câu, hai mí, linh hoạt, soi mói, láu lỉnh, sáng long lanh, trầm tư, trầm 
tĩnh, trầm lặng, hiền hậu, mơ màng, tinh ranh, lanh lợi, 
- Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ 
màng, chăm chú, ngơ ngác, hằn học, 
TẢ TÍNH TÌNH 
- Diễn tả tính cách: Nóng nảy, khoác lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, 
tham lam, ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, 
nhã nhặn, bạo dạn, vị tha, hời hợt, lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật 
thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận 
trọng, lỗ mãng, 
 6
- Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng 
khoái, khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí, 
d) Khai thác sự sáng tạo, suy nghĩ trên cơ sở quan sát bằng hệ thống 
câu hỏi mở 
 Ví dụ : Miêu tả ngôi trường (Tiếng Việt 5 Tập 1, trang 43). 
Một số câu hỏi khai thác ý đòi hỏi sự quan sát: (Phần thân bài) 
- Tả khu vực sân trường: Sân trường rộng hay hẹp ? Cây cối trồng trên 
sân đã cao lớn chưa ? Có tán toả bóng mát cho các em trong giờ chơi chưa hay 
chỉ là khu đất nắng chói chang ? 
- Tả chậu kiễng: chậu kiễng được trồng ở trước các lớp học với nhiều loài 
hoa màu sắc rực rỡ, nhiều cây xanh hay chỉ toàn những cây cỏ dại ? 
- Lớp học: Lớp học có mấy phòng ? Có thoáng mát, rộng rãi, có đèn, điện, 
quạt ? Cửa ra vào, cửa sổ như thế nào ? Bàn ghế được xếp như thế nào ? 
- Có đầy đủ phòng chức năng không ? Được trang trí như thế nào ? 
- Tả bảng thông báo: Bảng thông báo thường xuyên có những thông tin 
mới hay thường ngày chỉ là một mặt trắng xóa, im lìm ? 
- Tả các bạn đang làm gì ? Thầy cô đang làm gì ? 
e) Rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng viết 
* Rèn luyện kĩ năng nói 
Cùng với kĩ năng nghe, đọc, viết phân môn Tập làm văn ở lớp 5 dạy cho 
các em kĩ năng nói trong các giờ học văn kể chuyện, miêu tả và một số loại văn 
khác. Thông qua các bài tập thực hành luyện nói theo đề tài hoặc tình huống cho 
trước, tôi hướng dẫn các em thực hiện tốt yêu cầu sau: 
- Xác định rõ nội dung cần nói (nói về nội dung gì ? gồm những ý nào ? 
sắp xếp các ý đó ra sao ?). 
 Ví dụ: Đề bài Tập làm văn lớp 5 trang 94 - Luyện tập thuyết trình, tranh luận: 
Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của 
cả trăng và đèn trong bài ca dao sau: 
 Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng 
 Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn ? 
 Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn 
 Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây ? 
 Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn đề 
nêu ra trong đề bài, các em có thể chọn từ, tạo câu để trình bày các ý cần nói 
thành một đoạn văn và liên kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn như sau: 
 “Đèn và trăng đều vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. 
Đây là hai nhân vật cùng tỏa sáng vào ban đêm. Trăng soi sáng khắp nơi. Trăng 
làm cho cuộc sống thêm đẹp, thơ mộng. Nếu không có trăng, cuộc sống ra sao 
nhỉ ? Chúng ta sẽ không có đêm rằm trung thu, không được nhìn ngắm những vì 
sao lung linh trên trời Nhưng vì thế mà coi thường đèn. Trăng chỉ sáng vào 
một số ngày trong tháng và cũng có khi phải luồn vào mây. Còn đèn, đèn tuy 
nhỏ bé nhưng cũng rất có ích. Đèn soi sáng cho con người quanh năm, đèn giúp 
em học bài, đèn giúp mẹ làm việc Nhưng đèn không nên kiêu ngạo với trăng. 
Đèn không thể sáng nếu không có dầu, có điện. Đèn dầu ra trước gió sẽ có thể 
bị gió thổi tắt. Trong cuộc sống chúng ta, cả trăng và đèn đều rất cần thiết”. 
 7
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, thầy cô giáo để tự kiểm tra, đối chiếu 
văn bản nói của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt ; biết sửa lỗi 
về nội dung, hình thức diễn đạt. 
 Tôi luôn quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho các em theo yêu cầu trên, 
như vậy vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển 
tư duy, vừa tạo điều kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt. 
* Rèn luyện kĩ năng viết 
 Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), các 
em có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện 
pháp so sánh, nhân hoá,) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, các em cũng 
cần đạt được những yêu cầu rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao 
hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc ; bố cục 
bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và cả bài. Kĩ năng viết của các em được 
rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn 
chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết, tôi giúp học sinh thực hiện 
tốt những yêu cầu sau: 
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết ; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn 
bị thực hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học. 
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần 
thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, 
không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong đoạn được diễn tả 
theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính. 
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung 
và thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một 
văn bản hoàn chỉnh, bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở bài, thân bài, kết bài). 
Lời văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ: 
 + Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có thể 
so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động ; cần bộc lộ 
cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh. 
 + Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc ; từ ngữ 
chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người ; có thể sử dụng biện pháp liên 
tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với 
người được tả. 
 + Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so 
sánh, nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động. 
 + Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, hương 
thơm, mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh 
cây cối ở thời kì phát triển hay mùa khác nhau. 
 + Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm 
thanh ; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp 
liên tưởng, so sánh, nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi 
với con người. 
5.3. Khả năng áp dụng sáng kiến: 
 8
- Sáng kiến này có thể áp dụng trên mọi đối tượng học sinh, giáo viên 
đều có thể vận dụng những biện pháp này trong các tiết học, các tiết học môn 
khác mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. 
 6. Những thông tin cần được bảo mật: (Không có) 
 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 - Giáo viên phải có kiến thức vững vàng, có kĩ năng sư phạm không ngừng 
trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, có lòng say mê nghề nghiệp, tâm huyết nhiệt 
tình tất cả vì thế hệ trẻ, vì tương lai đất nước. 
- Cơ sở vật chất phòng học tốt; Có đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho 
việc nghiên cứu và áp dụng: Trang thiết bị dạy học: máy, tính máy chiếu, các tài 
liệu tham khảo 
- Được sự ủng hộ giúp đỡ nhiệt tình của nhà trường, học sinh và 
phụ huynh. 
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng 
sáng kiến theo ý kiến của tác giả: 
 a. Kết quả đạt được: 
Qua các biện pháp rèn luyện nêu trên trong quá trình thực hiện bản thân 
tôi tự nhận xét và thấy học sinh có phần tiến bộ hơn, sự tiến bộ của các em được 
thể hiện như sau: 
 Thời gian Tổng số HS Viết văn đạt Viết văn chưa đạt 
CHKII 
2019-2020 
24 16 em 8 em 
Cuối kì I 
2020-2021 
24 22 em 2 em 
 b. Bài học kinh nghiệm: 
Muốn các em học tốt phân môn Tập làm văn tôi cần rèn luyện cho các em 
một số kĩ năng cơ bản sau: 
- Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn nhằm rèn luyện mình để có 
nhận thức đúng, tình cảm đẹp đối với văn học. 
- Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học qua hoạt động, 
quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng quan sát như thế nào mới có kết quả 
tốt, phục vụ cho việc

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_ren_ki_nang_viet_van_o_pha.pdf