Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học Toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học Toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Trong lớp học thường có tới 4 loại đối tượng học sinh giỏi, khá, học sinh trung bình và học sinh yếu. Các đối tượng này học cùng một chương trình với những yêu cầu đặt ra theo mục tiêu đào tạo. Phần giải toán có lời văn chưa đáp ứng được đối tượng học sinh khá, giỏi. Bởi chưa có bài toán giải bằng nhiều cách hoặc bằng nhiều phép tính.

Đối với học sinh yếu kém do tư duy thiếu linh hoạt, sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng phát triển chậm hay thiếu tự tin nên trong giải toán đạt được kết quả là một khó khăn.

 

doc 15 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 2833Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học Toán có lời văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài, nền kinh tế kém phát triển, chương trình sách giáo khoa không thay đổi trong suốt 20 năm qua, kết quả đào tạo là lớp người thiếu kiến thức, vận dụng thực tế kém, nhìn ra các nước trên thế giới, chúng ta bị tụt hậu rất xa về nội dung và phương pháp dạy học, từ những lý do trên mà Bộ Giáo dục Đào tạo nước ta thấy cần thiết phải thay đổi nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học.
Đối với bậc tiểu học, từ năm học 2002 - 2003 tiến hành triển khai dạy lớp 1 theo chương trình mới. Năm học 2003 - 2004 dạy lớp 2 theo chương trình mới. Là giáo viên tiểu học trực tiếp đứng lớp tôi thấy cần thiết phải nắm bắt những điểm mới đó để làm tốt công tác giảng dạy của mình. Cũng chính vì lý do đó tôi đã chọn đề tài “Phương pháp dạy học Toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong dạy học toán nói chung và các em học sinh các lớp đầu cấp nói riêng.
II. Mục đích nghiên cứu:
Phương pháp dạy học toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
- Nêu ra những thuận lợi, khó khăn và biện pháp khắc phục.
- Nâng cao trình độc chuyên môn nghiệp vụ sư phạm cho bản thân.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 2A năm học 2003 - 2004.
- Các tổ chuyên môn.
- Ban giám hiệu Trường tiểu học Cát Tân - Như Xuân.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu về lý luận.
- Phương pháp quan sát, thực nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu bằng điều tra, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
V. Phạm vi nghiên cứu:
Phương pháp dạy toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
B. Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận.
Hoạt động giải toán luôn là hoạt động trí tuệ, sáng tạo vì rất hấp dẫn với nhiều học sinh và thầy cô giáo.
Với mong muốn sao cho giờ học Toán diễn ra nhẹ nhàng và mỗi học sinh phát huy được hết năng lực học tập của mình cùng với suy nghĩ dạy học môn Toán ở lớp 2 không chỉ trang bị cho học sinh vốn tri thức toán học trong chương trình mà còn giúp học sinh nắm được chìa khoá để đi tới nhận thức, rèn luyện con người và dạy học sinh biết cách học (phương pháp học) toán, vì vậy tôi đã đề ra và thực hiện pháp pháp cụ thể sau:
- Dạy khái niệm chắc chắn và khắc sâu cho học sinh dễ hiểu, giúp học sinh hiểu khái niệm “nhiều hơn” biết cách giải.
- Giúp học sinh củng cố nắm vững cách giải bài toán về nhiều hơn.
Chương II:
I. đặc điểm của đơn vị:
Năm học 2005 - 2006 trường có 2 lớp 2 với tổng số học sinh là: 49 em.
Đội ngũ giáo viên phần đông đạt trình độ chuẩn hoá, có lòng yêu nghề mến trẻ. Ham học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cùng với sự chỉ đạo chuyên môn và sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đến các môn học nói chung cũng như môn Toán nói riêng.
II. Mục tiêu của nhà trường đề ra trong năm học:
Do sự phát triển không ngừng của nền giáo dục hiện nay và nhu cầu kiến thức của học sinh phải được nâng cao phấn đấu mục tiêu với danh hiệu “chuẩn quốc gia” nên nhà trường đề ra trong năm học các khối lớp hai phải đạt được.
* Đối với giáo viên:
- Hồ sơ xếp loại: tốt.
- Có giờ dạy giỏi cấp trường trở lên.
- Phải làm tốt công tác chủ nhiệm.
* Đối với học sinh:
- Học lực 100% đạt từ trung bình trở lên.
Trong đó: 	Giỏi	: 24%	
Khá	: 43,2%
- Hạnh kiểm: 100% thực hiện đầy đủ.
III. Điều tra tình hình giảng dạy của giáo viên và tình hình học tập của học sinh.
- Những thuận lợi và khó khăn khi dạy Toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
- Một số biện pháp khắc phục khó khăn.
1. Tình hình giảng dạy của giáo viên:
Từ đầu năm học 2005 - 2006 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2A.
ở Tiểu học, giáo viên chủ nhiệm dạy gần như tất cả các môn học trong một lớp, nên yếu tố người thầy cực kỳ quan trọng. Người thầy ở tiểu học sẽ để lại trong tuổi thơ các em ấn tượng không thể phai mờ.
Chính vì thế Ban giám hiệu nhà trường cùng các đồng chí Tổ trưởng chuyên môn trong các buổi sinh hoạt chuyên môn đã quán triệt các đồng chí giáo viên không ngừng cải tiến, nâng cao phương pháp dạy học.
Phòng Giáo dục Như Xuân luôn triển khai các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học các môn học vào dịp hè hoặc trong năm học để một đồng chí cán bộ giáo viên được bồi dưỡng, tiếp thu chuyên đề mới.
Bản thân tôi gần đây được tham dự “Hội nghị tập huấn chuyên đề thay sách lớp 2”.
Từ việc nhận thức về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trang bị đầy đủ thời khoá biểu, sách giáo khoa, sách bồi dưỡng và đồ dùng học tập. Tôi thấy cần phải có phương pháp dạy học toán có loài văn cho học sinh.
Lớp tôi có: 24 học sinh, các em đi học gần trường, phần đông là con nông dân, hoàn cảnh gia đình ổn định. Nhìn chung các em được bố mẹ chăm lo đến việc học tập.
- Qua khảo sát đầu năm, các em đã nắm vững chắc chương trình Toán lớp 1, kết quả các em đều có đủ khả năng theo học chương trình toán lớp 2.
2. Những thuận lợi và khó khăn:
Qua thực nghiệm dạy nội dung này theo chương trình mới sẽ gặp một số thuận lợi khó khăn sau:
* Thuận lợi:
a. Đối với giáo viên:
Do có sự đổi mới về nội dung, cách sắp xếp kiến thức trong sách giáo khoa mà giáo viên dễ xây dựng các hoạt động dạy học nhằm đạt mục tiêu.
Nội dung các bài toán được cập nhận hoá phù hợp với thực tiến nên giáo viên cũng dễ chuyển tải đến học sinh.
Sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, tạo điều kiện cho giáo viên đạt được mục tiêu giảng dạy của mình.
b. Khó khăn: 
Do ít tiếp cận với sách giáo khoa, các tài liệu về chương trình mới, nhiều giáo viên chưa nắm chắc được sự thay đổi về nội dung và phương pháp dạy học. Trong giảng dạy hay nói nhiều, làm mẫu nhiều.
Khi dạy các bài toán giải có đơn vị đo lường, học sinh thường trình bày sai, nhưng giáo viên không sửa.
Chẳng hạn bài 3 tiết 92.
Mỗi can đựng được 3 lít dầu. Hỏi có? Can như thế thì đựng bao nhiêu lít dầu.
Học sinh trình bày:
Giải:
Số l dầu đựng trong can là:
3 x 5 = 15 (l)
Đáp số: 15 (l).
Nhiều giáo viên nên có thói quen không cho học sinh tìm hiểu kỹ đề nên thường đi đến kết quả sai.
Các bài toán giải bằng một phép tính nhân hoặc chia, chưa khái quát thành dạng cơ bản ở các tiết hình thành bảng nhân, các bài toán có lời văn thường không có hình vẽ cụ thể nên giáo viên khó hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề.
Ví dụ: Khi dạy tiết 91 bài “Bảng nhân 3” có bài 3 “mỗi nhóm có 3 học sinh, có 10 nhóm như vậy. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh”.
Giáo viên khó hiển thị cho học sinh của 10 nhóm, trong khi ở các tiết luyện tập, các bài toán thường được thể hiện bằng hình vẽ cụ thể. Ví dụ: Tiết 92 bài 4.
Mỗi túi có 3kg gạo. Hỏi 8 túi như thế có bao nhiêu kg gạo?
3kg
3kg
3kg
3kg
Bài giải
3kg
3kg
3kg
3kg
Với nội dung sách giáo khoa mới đòi hỏi phải sử dụng nhiều đồ dùng trực quan. Song vì năng lực của một số giáo viên còn hạn chế nên vẫn ít sử dụng đồ dùng trực quan.
2. Thuận lợi khó khăn đối với học sinh:
a. Thuận lợi:
Ngay từ lớp 1, chương trình đã giúp em rèn các kỹ năng, tìm hiểu đề toán, tìm cách giải và giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ. Vì vậy sang lớp 2 các em không còn lúng túng khi thực hiện giải một bài toán có lời văn.
Do đặc điểm của học sinh đầu cấp nhanh nhớ nhưng chóng quên nên khi tập trung vào một dạng thì các em dễ khắc sâu và rèn được kỹ năng tính toán.
Các bài toán có lời văn ở lớp 2 thường thể hiện một cách tường minh, các tình huống trong đề gần gũi với học sinh. Vì vậy với vốn ngôn ngữ còn ít của mình các em có thể đọc và hiểu đề một cách dễ dàng.
Đặc biệt với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm hiện nay giúp các em có điều kiện hoạt động và chủ động nắm kiến thức.
Thời lượng dành cho luyện tập thực hành nhiều nên các em được tham gia giải quyết nhiều tình huống khác nhau và bộc lộ khả năng của mình.
Các bài toán được trình bày với nhiều hình thức khác nhau, giúp các em hứng thú học tập phát huy được tính sáng tạo của mình.
b. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi nói trên học sinh vẫn gặp một số khó khăn khi học phần này.
* Về tìm hiểu đề:
Như chúng ta đã biết, muốn giải được bài toán được bài toán có lời văn học sinh phải đọc kỹ đề bài, hiểu được cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, song do trình độ ngôn ngữ của các em còn kém, một số học sinh lúng túng khi tìm hiểu đề.
Mặt khác nội dung các bài toán thường nêu lên một tình huống quen thuộc, gần gũi với học sinh. Trong đó các dữ kiện thường là các đại lượng (danh số), khi tìm hiểu đề các em thường bị phân tán vào nội dung cụ thể của đại lượng hơn là các số cần thiết cho việc diễn tả điều kiện của các bài toán theo yêu cầu của đề.
Ví dụ ở bài 3, tiết 41, “Một lớp học có 35 học sinh, trong đó có 20 học sinh trai. Hỏi lớp đó có bao nhiêu học sinh gái?”.
Hoặc bài 4, tiết 60, “Một cửa hàng đồ chơi, có 84 ô tô và máy bay, trong đó có 45 ô tô. Hỏi cửa hàng đó có bao nhiêu máy bay?”.
Đặc điểm tư duy lứa tuổi của các em là tư duy cụ thể nên tiếp xúc với các bài giải bằng một phép tính nhân hoặc chia thường gặp khó khăn trong suy luận.
Bên cạnh một số khó khăn khi tìm hiểu đề, các em còn gặp một số khó khăn trong quá trình giải.
Nắm vững nội dung nhất là các yếu tố cơ bản của bài toán là yêu cầu đầu tiên nhưng chưa đủ, nếu học sinh chưa có hứng thú và quyết tâm giải nó. Để giải đúng bài toán còn đòi hỏi các em tìm ra phương pháp giải là một hoạt động tư duy hết sức phức tạp, vừa đòi hỏi kinh nghiệm thực hành, sự linh hoạt sáng tạo. Song ở lứa tuổi các em thường có sự nhầm lẫn yếu tố không thuộc bản chất. Các em thường nhầm lẫn phương pháp giải giữa dạng này và dạng khác.
Ví dụ bài 3, tiết 40, phần 1.
“Mẹ nuôi con lợn nặng 28kg về nuôi. Sau một tháng nó tăng thêm 13kg, hỏi sau một tháng con lợn nặng bao nhiều kg?”.
Đây là bài toán về nhiều hơn một số đơn vị nhưng các em lại nhầm là bài toán tìm số trừ chưa biết nên có phép tính giải.
28 - 13 = 15 (kg)
Ngoài ra khi trình bày bài giải các em diễn đạt câu, lời văn thường không rõ ràng hoặc mắc các lỗi ghi chữ viết tắt các đơn vị đo đại lượng.
Ví dụ: Bài 4, tiết 114,
“Có 40 học sinh chia đều thành 4 tổ. Hỏi mỗi tổ có mấy học sinh?”
Học sinh có lời giải: "Có số học sinh là?” hoặc bài 4 tiết 122, “Có một số lít dầu đựng trong 6 can, mỗi can 3 lít. Hỏi có bao nhiêu lít dầu?”.
Học sinh viết câu lời giải “có số lít dầu là:”
c. Đối với học sinh cá biệt:
Trong lớp học thường có tới 4 loại đối tượng học sinh giỏi, khá, học sinh trung bình và học sinh yếu. Các đối tượng này học cùng một chương trình với những yêu cầu đặt ra theo mục tiêu đào tạo. Phần giải toán có lời văn chưa đáp ứng được đối tượng học sinh khá, giỏi. Bởi chưa có bài toán giải bằng nhiều cách hoặc bằng nhiều phép tính.
Đối với học sinh yếu kém do tư duy thiếu linh hoạt, sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng phát triển chậm hay thiếu tự tin nên trong giải toán đạt được kết quả là một khó khăn.
IV. Các biện pháp thực hiện:
Qua việc tiếp thu chuyên đề và trên cơ sở điều tra nắm bắt đối tượng học sinh của lớp, bản thân tôi luôn suy nghĩ, trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy. Tôi đã đề ra và thực hiện các biện pháp, phương pháp cụ thể sau nhằm nâng cao chất lượng và khả năng dạy học toán có lời văn cho học sinh.
1. Giúp học sinh hiểu được khái niệm “nhiều hơn” biết cách giải toán về nhiều hơn.
Tôi luôn tự nghiên cứu kỹ chương trình để nắm bắt được ý đồ của sách giáo khoa, cấu trúc nội dung sách để có sự so sánh giữa các biểu thức trong chương trình để tìm ra được phương pháp dạy tốt nhất.
Các khái niệm, kết luận đưa ra phải rất chắc chắn và khắc sâu cho học sinh hiểu rõ. Từ đó học sinh vận dụng để biết cách giải bài toán.
Ví dụ: Dạy tiết 22, 23, bài “Bài toán về nhiều hơn” và “luyện tập”.
Với tiết 22 là tiết dạy bài mới giáo viên xác định mục tiêu.
- Về kiến thức: Giúp học sinh hiểu khái niệm “nhiều hơn” biết cách giải toán về nhiều hơn”.
- Về kỹ năng: Rèn cách giải, trình bày bài toán đơn.
- Về giáo dục: Giúp học sinh rèn tính cẩn thận, chính xác và yêu thích môn học để đạt được mục tiêu trên, giáo viên cần tổ chức các hoạt động giúp học sinh tham gia một cách tích cực.
Hoạt động 1: Giới thiệu và hình thành khái niệm “nhiều hơn” bằng cách quan sát hình vẽ trong (SGK) hoặc vật thật theo nguyên tắc cho tương ứng 1 - 1.
Hoạt động 2: Giới thiệu thành bài toán nhiều hơn cho học sinh dựa vào hình vẽ đặt thành lời bài toán.
Hoạt động 3: Hướng dẫn giải, trình bày bài giải.
Hoạt động 4: Luyện tập, thực hành.
Các bài tập ở phần này giúp học sinh vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống khác nhau. Vì vậy mức độ các bài tập được nêu ra sắp xếp từ dễ đến khó.
Bài 1: Học sinh đọc bài toán, ghi đầu đủ vào tóm tắt, chọn phép tính ghi vào phần bài giải.
Bài 2: Mức độ cao hơn, học sinh phải ghi cả câu lời giải, phép tính và đáp số.
Bài 3: Học sinh tự đọc đề bài, tóm tắt và giải.
Như vậy phần luyện tập đã giúp các em từng bước nắm được phương pháp giải “bài toán về nhiều hơn” trong tiết học các em được hoạt động để tìm ra kiến thức. Tôi thấy học sinh tự giác tích cực tham gia vào quá trình dạy học, giờ toán diễn ra nhẹ nhàng và cuốn hút các em hơn.
2. Giúp học sinh củng cố nắm vững cách giải “bài toán về nhiều hơn”.
Nhiệm vụ chủ yếu nhất tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tượng, khuyến khích học sinh trong sự phong phú của các bài luyện tập. Giáo viên có thể tổ chức cho các em giải quyết các bài tập với nhiều hình thức khác nhau: Hoạt động nhóm, cá nhân, theo lớp.
Ví dụ: Tiết 23, phần 1 bài “Luyện tập”.
ở tiết này có 5 bài toán được đưa ra với các tình huống khác nhau. Hình thức thể hiện cũng khác nhau.
Bài 1: Có thể tổ chức cho các em hoạt động theo nhóm ngẫu nhiên (mỗi nhóm là 1 bài gồm 3 - 4 học sinh).
Cho các em quan sát: Cốc có 6 bút chì (như hình vẽ).
Các nhóm thảo luận để giải bài toán.
Bài 2: 3 hoạt động cá nhân. Các em dựa vào tóm tắt để giải bài toán.
Bài 4: Chia lớp thành các nhóm có đủ trình độ, các em đọc đề thảo luận để tóm tắt và giải bài toán.
Bài 5: Chia lớp thành các nhóm có cùng trình độ, giao thêm tình huống cho nhóm khá, giỏi.
- Nhóm học sinh trung bình tự giải bài toán.
- Giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh yếu, kém.
Cuối giờ học giáo viên nên tổ chức trò chơi toán học giúp các em thoải mái và khắc sâu nội dung bài học.
Như vậy giờ luyện tập đã dành hết thời gian cho các em tham gia hoạt động thông qua hình thức hoạt động nhóm, các em tự tin hơn, mạnh dạn trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau. Ngay từ bước đầu đã tạo ra sự năng động, khả năng ứng xử cho các em.
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học toán nói trên mà quan niệm về vai trò của người giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học toán cũng thay đổi.
3. Một số biện pháp khắc phục khó khăn.
Qua tìm hiểu thực tế và vốn kinh nghiệm giảng dạy của mình tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm khắc phục khó khăn như sau:
a. Đối với giáo viên:
Phải kịp thời hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa cũng như các tài liệu có liên quan.
Lấy phương pháp thích hợp theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
Giúp học sinh nắm được các bước cần thiết của quá trình giải toán có thói quen thực hiện đúng các bước của quá trình này.
Bước 1: Tìm hiểu đề bài.
Bước 2: Lập kế hoạch giải.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.
Bước 4: Kiểm tra lời giải và cách giải.
Để học sinh tìm hiểu kỹ đề, nắm được yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm giáo viên cần hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng lời, bằng sơ đồ đoạn thẳng, kiểm tra lại việc tìm hiểu đề của các em bằng cách yêu cầu các em trình bày lại đề bài qua tóm tắt theo cách hiểu của mình hoặc có thể dùng thủ thuật của mình, yêu cầu học sinh dùng bút chì gạch chân vào từ “chìa khoá” trong đề bài.
Để có kế hoạch giải đúng, giáo viên tập cho các em suy luận để trả lời các câu hỏi “Đây là bài toán gì đã học”.
* Muốn giải được bài toán cần làm phép tính gì” khi nắm được dạng toán các em sẽ có phương pháp giải đúng và chọn đúng phép tính.
Do thói quen vội vàng, thiếu cẩn thận nên trong quá trình thực hiện kế hoạch giải các em thường thực hiện sai phép tính hoặc danh số. Giáo viên cần hướng dẫn các em làm nháp rồi mới ghi vào bài làm.
Giúp học sinh khẳng định việc làm của mình bằng cách kiểm tra lại bài làm của mình. Giáo viên đưa ra một vài tình huống:
- Bài làm đúng.
- Bài làm sai.
- Bài làm còn thiếu.
Để các em tự phát hiện và đưa ra kết luận từ đó có kinh nghiệm cho bản thân.
b. Đối với học sinh:
* Đối với học sinh cá biệt:
Giáo viên cần nắm vững đối tượng học sinh cụ thể, quan tâm một cách phù hợp, có thể đặt thêm tình huống để học sinh khá giỏi phát triển tư duy.
Chẳng hạn khi học “bài toán về nhiều hơn” (tiết 22). Học sinh hiểu từ “nhiều hơn” trình bày ở tiết này là thêm vào. Các em chọn tính phép cộng để giải là đúng nhưng nếu thay bằng tình huống khác có từ “nhiều hơn” chẳng hạn:
Bài tập 2: Nam có 10 viên bi, Bắc có nhiều hơn Nam 5 viên bi. Hỏi Bắc có bao nhiêu viên bi?”.
Thay bằng “Nam có 10 viên bi, Nam có nhiều hơn Bắc 5 viên bi. Hỏi Bắc có bao nhiêu viên bi”.
Hoặc có thể đưa thêm tình huống để các em có thể giải bằng hai phép tính.
Ví dụ có thể thêm câu hỏi cho bài toán 2 ở trên cả hai bạn có bao nhiêu viên bi.
* Đối với học sinh yếu kém:
 Cần hướng dẫn cho các em từng bước rõ ràng, có thể dùng đồ dùng trực quan giúp các em tư duy cụ thể, nắm được yêu cầu của bài toán. Đồng thời gợi ý cho các em lựa chọn phép tính cho bài giải.
Cần phải kiên trì với đối tượng này, quan sát sự tiến bộ của các em để động viên kịp thời, dần dần giúp các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi giải toán. Ngoài ra thông qua hoạt động nhóm các em biểu lộ được mặt ưu, khuyết điểm cá nhân. Bằng sự giúp đỡ của những học sinh khá giỏi sẽ giúp đối tượng học sinh yếu tiến bộ.
V. Kết quả: 
Bằng các phương pháp nội dung thực hiện như trên, các em học sinh của lớp do tôi chủ nhiệm ngày càng có tiến bộ dần về môn toán nhất là toán có lời văn. Kết quả kiểm tra lần sau cao hơn kết quả kiểm tra lần trước.
TT
Loại điểm
Tháng 10
Tháng 12
Tháng 2
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
1
Giỏi
4
16,5
6
25,8
7
29,2
2
Khá
5
20,7
7
29,2
9
37,5
3
Trung bình
12
50,2
10
40,7
8
33,3
4
Yếu
3
12,6
1
4,3
0
0
Với kết quả trên cho thấy việc đưa phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức mang lại kết quả khá tốt.
Đa số học sinh của lớp tôi được nâng lên, các em phát biểu tốt hơn, tư duy linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, chất lượng đại trà được nâng lên.
Kết quả của cách dạy này không chỉ góp phần hình thành cho học sinh các kiến thức kỹ năng và thái độ cần thiết mà chủ yếu xây dựng cho học sinh cách học “phương pháp học” Toán như nhà triết học Hi Lạp nói “Dạy học không phải là chất đầy vào một cái thùng rỗng mà là làm bừng sáng lên những ngọn lửa”.
Chương III:
I. Bài học thực nghiệm:
Để góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy Toán có lời văn cho học sinh lớp 2, tôi đã rút ra bài học sau:
- Giáo viên cần tìm hiểu để nắm vững nội dung chương trình và lựa chọn phương pháp phù hợp với từng nội dung.
- Dạy học phần giải toán có lời văn cần giúp các em có thói quen tiến hành theo 4 bước. Nắm vững phương pháp giải của từng dạng bài.
- Chú ý đến từng đối tượng học sinh, giúp các em tham gia hoạt động học tập một cách tích cực, tự giác. Tuỳ thuộc vào nhận thức của các nhóm học mà có thể thêm (bớt) các tình huống.
- Giáo viên tích cực, tự giác học hỏi bạn bè, đồng nghiệp và các tài liệu tham khảo để nắng vững, trau dồi cho bản thân trình độ toán học và các phương pháp dạy học tiên tiến.
Với thời gian thực hiện đề tài còn ngắn cũng như năng lực, kinh nghiệm còn hạn chế tôi chỉ có nguyện vọng trình bày ở đây một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2.
Tôi kính mong sự góp ý chỉ dẫn của các đồng chí, các bạn đồng nghiệp để tôi có phương pháp dạy phù hợp, nâng cao hiệu quả dạy môn Toán nói riêng và các bộ môn văn hoá trong nhà trường tiểu học.
II. đề xuất.
Ngành giáo dục cần tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí tài liệu tham khảo cho giáo viên kinh tế còn khó khăn.
- Thông qua phương tiện thông tin đại chúng giúp mọi người hiểu sự cần thiết của việc thay sách giáo khoa.
C. Kết luận
Qua quá trình tìm tòi nghiên cứu để chọn ra phương pháp dạy Toán có lời văn cho học sinh lớp 2 đã đạt được kết quả như đã nêu, nhưng để đạt được kết quả cao thì người giáo viên nói chung và bản thân nói riêng còn phải cố gắng rất nhiều về mọi mặt, đặc biệt là phải tự nâng cao trình độ

Tài liệu đính kèm:

  • docToan co loi van lop 2.doc