Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi

Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi

Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học:

- Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát, phát triển tư duy cho học sinh.

- Hình vẽ trong SGK cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức.

 

doc 10 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 4096Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u của xã hội đối với giáo dục, mục tiêu dạy học không chỉ là những yêu cầu thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện kiến thức và lặp lại đúng, thành thạo các kĩ năng như trước đây, mà còn đặc biệt chú ý đến năng lực nhận thức, năng lực tự học của học sinh. Với quan điểm dạy học tích cực có thể hiểu: "phương pháp dạy học là cách thức, là con đường, là hệ thống và trình tự các hoạt động giữa giáo viên và học sinh, được giáo viên sử dụng để tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn học sinh tự lực và tích cực đạt tới kiến thức, rèn luyện và phát triển kỹ năng và các năng lực nhận thức cũng như góp phần hình thành các phẩm chất nhân cách mà mục tiêu dạy học đề ra". Trong xu thế chung của dạy học hiện nay, người ta coi dấu hiệu cơ bản của phương pháp là tính chất tổ chức chỉ đạo hoạt động nhận thức của giáo viên đối với học sinh. Mỗi phương pháp đảm bảo một tính chất xác định hoạt động nhận thức của học sinh, tiếp nhận một cách chủ động các tri thức do giáo viên truyền đạt hay độc lập tìm tòi, nghiên cứu để lĩnh hội tri thức. Giáo viên chỉ giúp học sinh định hướng vấn đề và chịu trách nhiệm cố vấn trong quá trình học tập của các em. Tuy nhiên lựa chọn phương pháp nào không do ý muốn chủ quan của giáo viên quyết mà phải xuất phát từ:
	- Mục tiêu đào tạo là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh tạo những tiền đề để các em trở thành “người lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo ...” .
	- Mục đích lí luận dạy học là nhằm gây ý thức, động cơ học tập, tri giác tài liệu mới hay củng cố, ôn tập, kiểm tra.
	- Nội dung bài học thuộc thành phần kiến thức nào? Là kiến thức giải phẩu hay kiến thức sinh lí, sinh thái hoặc kiến thức vệ sinh. 
	- Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi. Ở lứa tuổi học sinh lớp 8 kinh nghiệm sống còn ít, vốn hiểu biết còn nghèo nàn, các biểu tượng tích luỹ còn hạn chế, các em còn nặng về tư duy hình tượng cụ thể, tư duy thực nghiệm thì việc xây dựng các khái niệm đòi hỏi phải lấy "trực quan" làm điểm tựa.
	- Điều kiện cơ sở vật chất thiết bị của bộ môn trong nhà trường khá đầy đủ và hiện đại.	
 	Sau khi xem xét cân nhắc, dựa vào các cơ sở nêu trên và qua kinh nghiệm giảng dạy tại trường THCS tôi mới quyết định chọn đề tài "Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn sinh học 8" đạt hiệu quả và chất lượng cao trong dạy học.
Phần II. NỘI DUNG 
1. Những vấn đề chung:
Môn cơ thể người và vệ sinh là môn khoa học thực nghiệm mà phương pháp chủ yếu là quan sát và thí nghiệm. Như ta đã biết con người có nguồn gốc từ động vật thuộc lớp thú nên cấu tạo cơ thể và các hoạt động sinh lí về đại thể giống với động vật thuộc lớp thú. Do đó người ta thường tìm hiểu cấu tạo và hoạt động sinh lí của phần lớn các cơ quan, hệ cơ quan trên cơ thể động vật để tìm hiểu về con người.Trong dạy học môn này cho học sinh quan sát các mẫu vật tự nhiên lấy từ động vật (tim, phổi, thận, não...) để nguyên hoặc mỗ sẽ để tìm hiểu hình thái (hình dạng, kích thước, màu sắc), giải phẫu, kết hợp với tranh vẽ mô hình các cơ quan, hệ cơ quan của người.
	 “Con ngưới” là đối tượng nghiên cứu của Sinh học 8 ở trường phổ thông, một đối tượng gần gủi với học sinh là bản thân các em, là bạn bè xung quanh nên các em có thể có những hiểu biết thực tế liên quan đến đời sống đến hoạt động hàng ngày của mình. Do đó, giáo viên có thể khai thác những vốn hiểu biết đó trong quá trình dạy học bằng phương pháp hỏi - đáp gợi mở, hoặc về phía học sinh có thể dùng những hiểu biết khoa học để tìm hiểu, giải thích những hiện tượng thường gặp trong đời sống. Chẳng hạn: Vì sao khi hoạt đông lao động hoặc chơi thể thao, nhịp hô hấp và nhịp tim lại tăng? Hoặc giải thích câu "Trời nóng chống khát; trời mát chống đói”...
	Nội dung Sinh học 8 có nhiều mối liên hệ với chương trình SH7. Do đó quá trình dạy học cần quán triệt tính kế thừa của các kiến thức trong việc xây dựng các khái niệm mới và phát triển các khái niệm có tính chất đại cương (cấu tạo tế bào của cơ thể, tính thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa các hệ cơ quan trong cơ thể và giữa cơ thể với môi trường ...) 	
2. Phương pháp giảng dạy:
- Trong dạy học Sinh học 8 ở trung học cơ sở thì phương pháp trực quan và phương pháp thực hành đi theo con đường tìm tòi, nghiên cứu, tỏ ra có nhiều ưu thế trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, lại phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh ở lứa tuổi 13-14, đồng thời cũng thể hiện được các phương pháp đặc thù của các bộ môn khoa học tương ứng.
- Bên cạnh quan sát và thí nghiệm được sử dụng trong nhóm phương pháp trực quan và thực hành thì phương pháp đàm thoại, tím tòi trong nhóm phương pháp dùng lời cũng được vận dụng phổ biến trong dạy học sinh học 8, nhằm khai thác những vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ trong chương trình động vật, những hiểu biết thực tế trong đời sống của bản thân của các em hoặc vận dụng những kiến thức về giải phẩu và sinh lí người để tìm hiểu các biện pháp vệ sinh có liên quan đến việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho bản thân và cộng đồng.
- Nội dung chủ yếu của chương trình cơ thể người và vệ sinh ở THCS bao gồm các kiến thức về cấu tạo và hoạt động sinh lí của các cơ quan và các hệ cơ quan trong cơ thể người. Trên cơ sở đó đề cập đến các kiến thức vệ sinh cùng các biện pháp rèn luyện cơ thể, bảo vệ và tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật.
 Dựa vào các loại kiến thức của chương trình đưa ra mà phân thành các dạng phương pháp dạy học sau:
2.1 Phương pháp dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu: 
Vai trò của các phương tiện trực quan trong dạy học các kiến thức hình thái, giải phẩu.
Dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu cần coi trọng nguyên tắc trực quan.
Vận dụng nguyên tắc này GV thường sử dụng các phương tiện trực quan như:
- Các vật thật bao gồm các mẫu tươi, mẫu ngâm, các tiêu bản hiển vi.
- Các vật tượng hình như mô hình, tranh vẽ, các hình chụp, hình vẽ trên bảng hoặc các sơ đồ cấu tạo, phim đèn chiếu ...
Trong các loại phương tiện trên thì mẫu tươi có nhiều ưu điểm hơn cả. Nó cho phép học sinh hiểu rõ hình dạng, màu sắc và kích thước thực của các đối tượng quan sát đôi khi còn cho các em thấy rõ qua cảm giác, xúc giác (sờ, nắn) về tính chất của đối tượng nghiên cứu (độ cứng, mềm, trơn, nhẵn hay gồ ghề) nhằm gây hứng thú yêu thích môn học. 
Chẳng hạn, qua nghiên cứu một mẫu tim lợn tươi, bằng sờ nắn các thành cơ của các ngăn tim, các em có thể nhận biết thành cơ của các tâm nhĩ mỏng hơn so với thành cơ các tâm thất, thành của tâm thất trái dày hơn thành của tâm thất phải. Nếu không có được mẫu tươi, thì mẫu ngâm cũng vẫn là vật thật, có tác dụng tốt trong giờ dạy, đảm bảo học sinh có được biểu tượng khá chính xác về đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên, mẫu ngâm khó giữ được màu sắc tự nhiên nhưng lại có ưu điểm là được xử lí tốt về mặt sư phạm, thể hiện được rõ những đặc điểm cấu tạo cần quan sát.
 Tuy nhiên, không phải mọi vật đều đáp ứng được những yêu cầu sư phạm của một số đồ dùng học tập. Có những vật thật quá nhỏ khó quan sát. Muốn cho học sinh có được một ý niệm về sự tinh vi, phức tạp của kích thước thực của chúng như cấu tạo của cơ quan tai trong, màng lưới và điểm mù của cầu mắt, cấu tạo của niêm mạc ruột với các tế bào lông ruộtthì phải kết hợp với việc sử dụng mô hình.
 Nhiều khi vật thật, mô hình không cho phép đi sâu vào cấu tạo chi tiết, cấu trúc hiển vi của các cơ quan, lúc này tranh vẽ sẽ bổ sung tốt cho những hạn chế trên. Đặc biệt là loại tranh “phân tích” và “tranh liên hoàn” cho phép đi sâu vào các mức độ cấu trúc khác nhau của các cơ quan đó, hoặc đi sâu vào cấu trúc chi tiết của các bộ phận quan trọng, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu chức năng được thuận lợi.
Song các vật thật, mô hình hoặc tranh vẽ, ảnh chụp phóng to thường là phức tạp khiến học sinh khó hình dung được những nét cơ bản trong cấu trúc, trong trường hợp đó sử dụng các sơ đồ câú trúc sẽ có tác dụng khắc sâu những đặc điểm cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, đồng thời làm phát triển tư duy trừu tượng, tư duy khái quát của học sinh.
Ngoài ra hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan có giá trị sư phạm cao, được sử dụng kết hợp với giảng giải, giúp học sinh theo dõi một cách dễ dàng. 
Đặc biệt, cơ thể người cũng là một phương tiện trực quan sống cần được khai thác trong quá trình dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu. Chẳng hạn, mắt với màng giác, mống mắt, con ngươi; lưỡi với các gai vị giác, da với các sản phẩm của da (lông, móng); tai ngoài các chi, xương đai, các loại khớp, các bắp cơ có thể quan sát trực tiếp trên cơ thể mình hoặc bạn. 
 Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học:
- Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát, phát triển tư duy cho học sinh.
- Hình vẽ trong SGK cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức.
2.2 Phương pháp dạy các kiến thức sinh lí, sinh thái:
Vai trò của thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái.
Trong việc dạy học các kiến thức sinh lí, sinh thái, thí nghiệm đóng một vai trò rất quan trọng. Thí nghiệm cho phép đi sâu nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình sinh lí trong những điều kiện nhân tạo được khống chế, thí nghiệm được tiến hành trên các đối tượng (ếch, cóc, chuột thỏ ) hoặc ngay trên chính cơ thể học sinh để tìm hiểu nguyên nhân, tìm ra cơ chế, rút ra các quy luật hoạt động của các cơ quan, hệ cơ quan trong mối quan hệ của các cấu trúc của chúng.
Sử dụng các thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái.
	Sử dụng các thí nghiệm như thế nào để đạt được hiệu quả cao về mặt nhận thức là một vấn đề đáng được lưu ý về mặt phương pháp.
- Thí nghiệm có thể được sử dụng làm điểm xuất phát cho quá trình nhận thức là nguồn cung cấp thông tin trong nhóm phương pháp trực quan của GV biểu diễn (thí nghiệm biểu diễn) hoặc trong nhóm phương pháp thực hành do học sinh trực tiếp tiến hành (thí nghiệm học tập của HS). Ở đây dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải độc lập quan sát các bước trong thí nghiệm (do GV biểu diễn hoặc do HS tự tay tiến hành), tích cực tư duy, chủ động, giành lấy kiến thức. Do đó, thí nghiệm có tác dụng tích cực trong hoạt động nhận thức, giúp phát triển tư duy khoa học tới mức tối đa, đồng thời phát triển năng lực quan sát, rèn luyện một số kỹ năng thực hành. Thí nghiệm trong trường hợp này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu được gọi là thí nghiệm biểu diễn có tính chất nghiên cứu (do GV tiến hành) hoặc thí nghiệm thực hành (do HS tiến hành). Trong thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp tìm tòi nghiên cứu, HS phải tập trung chú ý quan sát, tích cực tư duy (so sánh, đối chiếu các kết quả trong quá trình thí nghiệm) để tự mình rút ra những nhận xét, đi tới các kết luận cần thiết dưới sự hướng dẫn của GV.
- Trong dạy các kiến thức sinh lí, thí nghiệm còn được sử dụng như một biện pháp để xác định nhiệm vụ nhận thức, vì nhu cầu và hứng thú chỉ nảy sinh khi các em hiểu được ý nghĩa, ý thức được rõ ràng vấn đề cần tìm hiểu, nghiên cứu học tập, từ đó các em sẽ tập trung chú ý vào vấn đề học tập, nghiên cứu.
Chẳng hạn, khi chuẩn bị cho việc nghiên cứu chức năng của rễ tuỷ (rễ trước và rễ sau), GV có thể xác định nhiệm vụ nhận thức bằng tiến hành biểu diễn thí nghiệm.
	Tìm và cắt đôi dây thần kinh toạ (là một dây thần kinh tuỷ) và lần lượt kích thích các đầu dây thần kinh (đầu ngoại biên (a) và đầu trung ương (b)).
	Qua quan sát hiện tượng phản ứng của ếch (khi kích thích đầu a chi đó co, có nghĩa là xung truyền theo hướng li tâm, nhưng khi kích thích đầu b thì chi đó không co, nhưng làm chi bên đối diện co, có khi co cả các chi trên, nghĩa là dây thần kinh toạ không chỉ truyền xung động li tâm mà truyền cả xung động hướng tâm. HS sẽ rút ra nhận xét là dây thần kinh tuỷ dẫn truyền hai chiều: hướng tâm (dẫn truyền cảm giác) và li tâm (dẫn truyền vận đông). Nó là dây pha.
	Giáo viên đặt vấn đề "Vậy, để hiểu rõ tính chất "pha", hãy tìm hiểu cấu trúc của dây thần kinh tuỷ và chức năng của các thành phần cấu trúc đó".
	Từ đó, GV đi vào giới thiệu cấu trúc " Bằng phương pháp giảng giải minh hoạ” và tìm hiểu chức năng của các rễ tuỷ (bằng phương pháp thí nghiệm nghiên cứu) do đó sẽ hiểu rõ chức năng của dây thần kinh tuỷ: Do sự nhập lại của các sợi dây thần kinh hướng tâm và li tâm và nối với tuỷ sống qua các rễ sau (rễ cảm giác) và rễ trước (rễ vận động).
- Ở mức độ cao, thí nghiệm có thể sử dụng như một biện pháp để tạo tình huống có vấn đề,gây hứng thú nhận thức cho học sinh .
Thí dụ: Tạo tình huống có vấn đề bằng thí nghiệm về "tính bền vững của xương" khi dạy về thành phần hoá học của xương.
Cho HS quan sát chiếc xương đùi của ếch nhỏ bé và "thử dự đoán với trọng tải là bao nhiêu sẽ làm gãy chiếc xương đó khi đặt ở vị trí nằm ngang?"
GV lần lượt đặt vào đĩa cân các quả cân ban đầu lớn, sau đó cho thêm các quả cân nhỏ dần, vừa đặt vừa thông báo khối lượng mà xương đang gánh chịu. HS sẽ rất ngạc nhiên, không ngờ một chiếc xương nhỏ bé như vậy mà có thể chịu đựng được một khối lượng tới 3-4 kg vẫn chưa gãy. Một câu hỏi nãy sinh: "Như vậy sức chịu đựng lớn của xương do đâu mà có?" HS dự đoán: "Phải chăng do cấu trúc đặc biệt của xương, thành phần hoá học của xương hay do sự phối hợp của cả hai?"
- Thí nghiệm không chỉ sử dụng trong lúc dạy các kiến thức mới mà còn được dùng cả trong khâu củng cố, hoàn thiện và kiểm tra các kiến thức sinh lí, trong trường hợp này không lặp lại hoàn toàn thí nghiệm đã sử dụng lúc dạy bài mới mà là một biến dạng của thí nghiệm đó (thí nghiệm góc), sử dụng hình thức thí nghiệm tương đương (thí nghiệm ảo).
	Ví dụ: Củng cố kiểm tra vai trò tác dụng của enzim trong dịch tiêu hóa, có thể tiến hành thí nghiệm sau: GV đưa ra thí nghiệm và thông báo: "An đang tiến hành thí nghiệm về vai trò của enzim trong dịch tiêu hoá thì gió làm bay các mảnh giấy đã đánh dấu trong 4 ống nghiệm đã được đặt trong cốc nước ấm. Một bạn đã giúp An thử nhỏ Iốt vào 4 ống nghiệm thì thấy 1 ống không cho màu (I) còn 3 ống kia có màu xanh. An tiếp tục dùng giấy quỳ để thử thì thấy 1 ống làm đỏ giấy quỳ tím (II), ngược lại một ống lại chuyển giấy quỳ màu đỏ sang màu tím nhạt (III), ống còn lại (IV) làm chuyển màu giấy quỳ".
	Tới đây cả An và bạn An đang loay hoay chưa biết trong mổi ống nghiệm chứa gì để báo cáo với thầy giáo. Em có thể làm gì để giúp cho hai bạn đó không?
- Ngoài ra còn có thể hướng dẫn học sinh tiến hành những thực nghiệm ngay trên cơ thể của các em. Chẳng hạn: 
- Nghiên cứu sự thay đổi của nhịp tim mạch, nhịp hô hấp trong một phút sau khi lao động hay chạy tại chổ hoặc làm động tác đứng lên ngồi xuống 10 lần, so với trước lúc tiến hành các hoạt động trên và giải thích.
- Tìm hiểu khả năng nhịn thở (tính bằng giây) trước và sau khi thở hít sâu khoảng 10 lần, giải thích sự khác nhau về số liệu thu được.
- Thí nghiệm về ảnh hưởng của nhịp cơ và trọng tải đối với công của cơ.
2.3. Phương pháp dạy các kiến thức ứng dụng:
Đặc điểm của các kiến thức ứng dụng
- Các kiến thức ứng dụng thường vận dụng các kiến thức cơ bản đã được lĩnh hội trước đó để tìm ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện cơ thể, nhằm tăng cường sức khoẻ, phương pháp xử lí các tình huống bất thường xảy ra đối với cơ thể và trong việc xây dựng các thói quen tập quán tốt.
- Ngoài ra, các kiến thức ứng dụng cũng chưa liên quan đến những nhu cầu nảy sinh trong đời sống thực tế hằng ngày của con người nên rất gần gũi đối với học sinh và cũng liên quan đến vốn sống mà các em đã tích luỹ được trong đời sống sinh hoạt của bản thân.
Phương pháp dạy học các kiến thức ứng dụng.
- Căn cứ vào các đặc điểm đã trình bày, khi dạy giáo viên khai thác triệt để vốn tri thức đã có, những vốn sống và kinh nghiệm mà học sinh đã tích luỹ bằng phương pháp đàm thoại có tính chất tìm tòi, thảo luận nhóm, trao đổi thông tin trong nhóm để học sinh tự tìm ra các biện pháp vệ sịnh. Phương pháp xử lí các tình huống (hô hấp nhân tạo, băng bó khi gãy xương, cầm máu); giải thích cơ sở khoa học của các ứng dụng, của các hiện tượng thực tế, những mặt tích cực và tiêu cực trong cách sống, sinh hoạt của bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Đây là cách củng cố kiến thức bằng vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng thực tế, đồng thời cũng là cách kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh và chắc chắn các em sẽ nhớ lâu.
Trên đây đã trình bày những yêu cầu cần đạt và những phương pháp cơ bản để sử dụng khi dạy các kiến thức chủ yếu trong nội dung của chương trình sinh học 8. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm của từng loại kiến thức giáo viên có thể vận dụng vào dạy học tuỳ theo nội dung từng bài và căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng trường, từng địa phương, vào trình độ của từng lớp mà quyết định các phương pháp dạy học cho thích hợp nhằm dạt chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học thích hợp còn cần quan tâm tới hình thức tổ chức dạy học Xu hướng dạy học mới chú trọng nhiều tới hình thức tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ. Hình thức dạy học này tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trực tiếp tham gia vào hoạt động học tập, có điều kiện được bộc lộ những suy nghĩ, lập luận, lí giải một vấn đề trong thảo luận, tranh luận để tìm ra chân lí. Đây là dịp học sinh được tập dượt sử dụng ngôn ngữ khoa học trong lúc giao tiếp, là dịp để nâng cao năng lực tự đánh giá khii đối chiếu ý kiến của mình trong lúc lắng nghe ý kiến phát biểu của bạn, kết luận của thầy từ đó để tự điều chỉnh, để chính xác hoá những hiểu biết của bản thân giúp học sinh phát triển.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ	
1. Kết luận:
- Phương pháp dạy học gắn bó với phương tiện trực quan nhất là đối với việc nghiên cứu về giải phẩu và sinh lí cần tiến hành quan sát và thí nghiệm. Do đó mô hình, tranh vẽ, mẫu vật thật, mẫu ngâm, tiêu bản hiển vi ... và các thiết bị thí nghệm là các phương tiện không thể thiếu. Qua đó nhằm phát huy được tính tự giác tích cực và tự lực, tính chủ động sáng tạo, học sinh tự giành lấy kiến thức dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, kiến thức thu nhận được sẽ trở thành tài sản riêng của các em. Vì vậy, các em hiểu bài sâu và nắm vững hơn. Ngoài ra gây hứng thú nhận thức rất lớn đối với các em, mà hứng thú là yếu tố tâm lí ban đầu có tác dụng tích cực đối với quá trình nhận thức. Các phương pháp đã góp phần phát triển tư duy rèn luyện các kĩ năng cho học sinh, cho các em tập dượt làm quen với phương pháp nghiên cứu nói riêng, phương pháp nhận thức nói chung, đặc biệt là khi kết hợp với các yếu tố nêu và giải quyết vấn đề. 
- Việc lựa chọn đúng đắn và sự kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học nhằm đạt hiệu quả cao phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nghệ thuật sư phạm và lòng nhiệt tình. Không thể có một bản hướng dẫn mẫu cho việc lựa chọn các phương pháp dạy học một bài, một kiến thức, cũng không thể có một gợi ý nào đó bất di bất dịch. Tất cả mọi khó khăn sẽ vượt qua, nếu có lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ tương lai cho đất nước.
2. Đề nghị:
 - Trên đây là những phương pháp chủ yếu thường sử dụng trong giảng dạy bộ môn và đem lại hiệu quả tối ưu trong điều kiện cho phép nhưng không loại trừ khả năng vận dụng những phương pháp khác. Trong từng bài tuỳ từng thành phần kiến thức, trong những trường hợp cụ thể (trình độ học sinh, điều kện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học) cần lựa chọn các phương pháp dạy học thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Qua đề tài này các bạn đồng nghiệp có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy bộ môn Sinh học 8.
- Dù tôi có cố gắng nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn 
	TP. Tây Ninh ngà

Tài liệu đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem_SH_8.doc