Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở trường mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở trường mầm non

1. Cơ sở lý luận.

 Trong thực tế chúng ta đã biết, nhiệm vụ Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống Giáo dục Quốc dân. Giáo viên Mầm non là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội Chủ nghĩa , tùy theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mầm non trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ, vốn Tiếng Việt của trẻ hạn chế, trẻ ít mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, nhất là với người lạ, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh nghèo nàn nên ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Đối với trẻ dân tộc việc học Tiếng Việt giống như ngôn ngữ thứ hai của trẻ, trẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ Tiếng Việt. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo và linh hoạt trong quá trình truyền thụ ngôn ngữ Tiếng Việt cho trẻ.

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1012Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội Chủ nghĩa , tùy theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mầm non trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ, vốn Tiếng Việt của trẻ hạn chế, trẻ ít mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, nhất là với người lạ, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh nghèo nàn nên ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Đối với trẻ dân tộc việc học Tiếng Việt giống như ngôn ngữ thứ hai của trẻ, trẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp nhận ngôn ngữ Tiếng Việt. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo và linh hoạt trong quá trình truyền thụ ngôn ngữ Tiếng Việt cho trẻ.
2. Thực trạng:
a. Thuận lợi, khó khăn.
* Thuận lợi:
- Lớp có 2 giáo viên đứng lớp, đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, giáo viên năng động, yêu nghề mến trẻ, luôn gần gũi với trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp tốt.
- Giáo viên là người dân địa phương nên có nhiều thuận lợi trong việc trao đổi, phối hợp với phụ huynh trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Lớp học đóng trên địa bàn, đa số trẻ sống gần trường, lớp đã tạo điều kiện thuận tiện trong việc đưa đón trẻ đến trường.
- Hầu hết phụ huynh đều muốn con em của mình đến lớp được học và hiểu tiếng phổ thông.
* Khó khăn:
- 100% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp với nhau đều bằng tiếng mẹ đẻ, ít hiểu tiếng Việt nên dẫn đến việc các cháu khó tiếp thu lời giảng của cô giáo.
- Điều kiện kinh tế phụ huynh rất khó khăn, chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của trẻ, nhiều phụ huynh còn đưa con lên rẫy vài ngày mới về. Trong cuộc sống hàng ngày phụ huynh có thói quen giao tiếp với trẻ bằng ngôn ngữ địa phương, nên việc nói tiếng Việt của trẻ được học ở trường lớp cũng bị hạn chế.
- Giáo viên người dân tộc thiểu số trong giờ dạy và trong giao tiếp với trẻ vẫn còn lạm dụng tiếng mẹ đẻ, nhiều khi chưa triệt để sử dụng đồ dùng, tranh ảnh minh hoạ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, chưa rèn luyện kỹ năng cho trẻ.
- Cơ sở vật chất chưa đầy đủ, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các môn học còn thiếu dẫn đến việc giảng dạy của cô gặp nhiều khó khăn.
b. Thành công, hạn chế:
* Thành công :
- Trẻ thích được đến trường, tích cực tham gia vào các hoạt động.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin giao tiếp với cô và bạn bè bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
- Vốn Tiếng Việt của trẻ phong phú hơn, phát âm chuẩn.
* Hạn chế :
- Trẻ vẫn chưa sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt mọi lúc, mọi nơi. Trẻ vẫn thường sử dụng tiếng mẹ đẻ khi giao tiếp với bố mẹ và người thân.
- Đồ dùng, tranh ảnh minh hoạ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tiếng Việt chưa phong phú, đa dạng.
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
* Mặt mạnh:
- Chất lượng chăm sóc – giáo dục của lớp ngày cáng được chuyên môn đánh giá cao.
- Giáo viên luôn học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, tham khảo tài liệu để tìm hướng giáo dục trẻ được tốt nhất, luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, gần gũi với trẻ và tăng cường giao tiếp với trẻ bằng ngôn ngữ tiếng Việt mọi lúc, mọi nơi.
- Nhận thức của một số phụ huynh đã được nâng lên rõ rệt: Quan tâm đến con em, giao tiếp với con bằng Tiếng Việt.
* Mặt yếu:
- Việc vận động phụ huynh đưa con em đi học còn hạn chế, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, việc tuyên truyền phụ huynh cung cấp kiến thức vốn tiếng Việt cho trẻ khi ở nhà chưa sâu rộng.
d. Nguyên nhân
- Luôn được sự quan tâm, động viên và chỉ đạo sát sao của BGH.
- Bản thân giáo viên luôn chú trọng, trăn trở với chất lượng của lớp.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.
Để thực hiện được vấn đề này một cách có hiệu quả nâng cao chất lượng giao tiếp bằng tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì cần phải phát triển ngôn ngữ, bởi vì tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ, sự phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác, vì ngôn ngữ là phương tiện để giao lưu tình cảm, về mối quan hệ và cách ứng xử trong xã hội, là sự tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên, cuộc sống xung quanh trẻ. Nhưng đối với trẻ người đồng bào dân tộc quả là một vấn đề khó khăn, thêm vào đó sự bất đồng về ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã gây nhiều khó khăn trong việc giao tiếp.Vì vậy, để nâng cao mục tiêu phát triển ngôn ngữ bằng tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi dân tộc thiểu số thì người giáo viên trước hết phải tạo ra cho trẻ hứng thú ham thích đi học, và tạo cho trẻ hứng thú học tiếng Việt làm tiền đề để thích ứng với việc tập đọc, tập tô cần tạo được mọi cơ hội khuyến khích trẻ bộc lộ khả năng sáng tạo của cá nhân mình. Cần có những bài thơ, câu chuyện, bài thơ tranh chữ to, tranh minh hoạ, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển bước đầu bằng ngôn ngữ đọc, ngôn ngữ viết ở trẻ. Song việc chuẩn bị cho quá trình giao tiếp bằng tiếng Việt thông qua tất cả các môn học, thông qua mọi hoạt động của trẻ, việc giao tiếp diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi cần phải tạo được môi trường cho trẻ hoạt động, tổ chức tiết học. Như vậy việc trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động vui chơi tự nhiên đầy hứng thú, như một chủ thể tích cực.
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện :
a. Mục tiêu của biện pháp, giải pháp:
Việc cho trẻ Dân tộc thiểu số làm quen với Tiếng việt là một việc làm hết sức cần thiết, tưởng chừng như rất dễ nhưng thực tế lại rất khó, khi nghĩ đến điều này, bản thân tôi luôn suy nghỉ nhiều về điều này và đặt ra nhiều câu hỏi “ Làm gì? , dạy trẻ làm quen với Tiếng việt là dạy cái gì? Dạy như thế nào? Trẻ làm quen với tiếng việt với tư cách là bộ môn khoa học hay với tư cách là một công cụ, một phương tiện giao tiếp ? Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên quan tới việc lựa chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc tiếp cận, làm quen dần với Tiếng việt. Từ đó tôi quyết định nghiên cứu những nội dung phù hợp để áp dụng vào dạy trẻ như sau:
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
* Biện pháp 1: Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở hoạt động: Làm quen Tiếng Việt.
- Dựa theo kế hoạch chỉ đạo của chuyên môn, tổ khối, bản thân tôi cũng xây dựng kế hoạch làm quen Tiếng Việt cho trẻ lớp tôi: Kế hoạch chủ đề, kế hoạch tuần, kế hoạch hoạt động một ngày.
VD: Chủ đề: Gia đình, chủ đề nhánh: Những người thân trong gia đình, 
Hoạt động: làm quen Tiếng việt. Với các từ Ông, bà, bố mẹ, anh chị...
	- Tổ chức tiết dạy cho trẻ làm quen: tôi chuẩn bị đồ dùng cho cô và trẻ, cho trẻ được luyên tập, quan sát và đàm thoại theo nội dung tranh, đồ dùng giáo viên chuẩn bị nhằm cho trẻ phát âm chuẩn từ Tiếng Việt mà cô yêu cầu, biết đặt câu với những từ tiếng Việt đó. Tôi luôn chú trọng đến phát âm của trẻ, thường xuyên mời cá nhân trẻ lên phát âm để biết được những lỗi sai của trẻ và sửa sai kịp thời cho trẻ.
	- Bên cạnh đó, tôi cũng luôn chú trọng đến việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, tôi luôn tìm tòi, sưu tầm những bức tranh gần với từ ngữ Tiếng việt cho trẻ làm quen, lại đẹp, màu sắc hấp dẫn để lôi cuốn trẻ hoạt động, ngoài ra tôi cũng thường xuyên xây dựng những bài giảng điện tử để thay đổi hình thức tạo cho trẻ cảm giác thích thú khi tham gia hoạt động. 
* Biện pháp 2. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :
Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ tôi nghĩ việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết.
Trong thực tế như chúng ta thấy, bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm "Mưa dầm thấm lâu" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả.
- Giờ đón trẻ tôi luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Sáng nay ai đưa con đến trường ? Con ăn sáng chưa? sáng nay mẹ cho con ăn gì? Nhà con có mấy anh chị em? Ai mua áo cho con mà đẹp vậy?
- Qua trò chuyện với trẻ như vậy tôi nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn.
- Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở mỗi góc, tôi dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ cái đã học qua nhiều lần như vậy trẻ lớp tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, để từ đó tôi có những biện pháp phù hợp cũng như dành nhiều thời gian cho những trẻ đó hơn.
- Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn.
- Giờ vui chơi (Hoạt động góc) tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nén mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Chính nhờ vậy mà lớp tôi đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và với cô.
- Giờ trả trẻ cũng như giờ chơi tự do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp xúc với tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với trẻ. Cho trẻ hát hoặc đọc các bài thơ có trong chương trìnhkhông những vậy tôi luôn tìm mọi cách để thay đổi hình thức giúp trẻ không thấy nhàm chán khi tham gia các hoạt động. Cứ như vậy trẻ ở lớp tôi đã có sự chuyển biến tốt, trẻ đã mạnh dạn hơn trong giao tiếp, không rụt rè mỗi khi cô gọi, không nhút nhát khi chơi với bạn
* Biện pháp 3. Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các môn học khác:
* Môn làm quen văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết: Dạy trẻ kỹ năng đọc thơ, kể chuyện. Tuy nhiên tùy theo tình hình của lớp mà tôi lựa chọn các bài thơ cho phù hợp, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, chú ý đến giọng đọc tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, sau đó mới mời trẻ lên đọc thơ, kể chuyện. Tôi chú ý đến những trẻ đọc chưa chuẩn để rèn và sửa sai cho trẻ.
VD: Chủ đề "Thế giới động vật" Câu chuyện "Chú dê đen"
* Hoạt động âm nhạc:
Tôi dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ điểm cũng như những bài hát trong chương trình mầm non Tổ chức cho các cháu cuộc thi “ Đồ Rê Mí”, tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và biểu diễn cho các bạn xem cứ lần lượt như vậy và tất cả các cháu đều được lên hát, bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không lời và các cháu là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu đã dần dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát điều này cho tôi thấy các cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng việt và tôi đã khuyến khích đồng thời tích hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp các cháu phát triển vốn tiếng việt tốt hơn nữa
* Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt:
- Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói
- Trong lớp tôi cũng có một số cháu nói được tiếng phổ thông nhưng không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản năng bắt chướcchính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ giúp trẻ nhận biết được chính sát cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm, để từ đó trẻ có thẻ nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ cái tương ứng trong từ
Ví dụ : Chủ đề “ Gia đình”
Đề tài : Làm quen chữ cái e, ê.
- Cô tạo tình huống cho trẻ đến thăm nhà 1 bạn, bạn đó ở nhà rất ngoan và lớp mình có muốn ngoan giống bạn đó không, vậy bây giờ chúng mình hãy ngồi thật ngoan để xem mẹ bạn ấy tặng cho chúng mình món quà gì nhé ( và tất nhiên trẻ nào cũng muốn mình ngoan giống như bạn)
- Cô có tranh “ Mẹ bế bé” dưới tranh cô có từ “Mẹ bế bé” cô cho trẻ đọc từ dưới tranh ( Cả lớp cùng đọc).
- Cô đặt những câu hỏi cho trẻ trả lời : Trong từ “ Mẹ bế bé có bao nhiêu tiếng?”
- Để chỉ từ “ Mẹ bế bé” cô cũng có thẻ chữ cái rời ghép lại, bạn nào giỏi lên rút chữ đã học ( trẻ lên rút chữ đã học và phát âm)
- Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ cùng với lớp mình làm quen với “những chữ cái dễ thương” hay “những chữ cái đáng yêu”nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô phân tích cấu tạo của chữ cái e, ê, cô giới thiệu cách viết và cho trẻ phát âm chữ cái e, ê. Cô cho trẻ quan sát và so sánh đặt điểm của hai chữ cái, cô gợi ý cho trẻ nêu được điểm giống và khác nhau để từ đó giúp trẻ nhớ lâu hơnvà để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu tạo, và nhận biết chính xác các chữ cái, ta phải luôn tìm tòi, học hỏi và sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái không những thế mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn.
- Ví dụ : Như trò chơi “ chiếc nón kỳ diệu” hay trò chơi “ Ô cửa bí mật” trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó
- Cô cho trẻ chơi các trò chơi chữ cái:
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái I, T, C trong bài thơ " Làm nghề như bố" Tôi viết bài thơ lên giấy rô ki ( mỗi tờ một bài), tôi chia lớp làm 3 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ I, T, C có trong từ có trong mỗi câu thơ, đội nào tìm gạch chân được nhiều chữ I, T, C thì chiến thắng và được tuyên dương.
Ví dụ: Tôi cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như " Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó". " Đưa chữ cái theo yêu cầu của cô" gắn trên đồ dùng, đồ chơi,...
- Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi tự tạo để cho trẻ được thực hành trãi nghiệm.
- Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, các cháu hứng thứ trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp.
* Hoạt động khám phá khoa học:
- Môn KPKH là một trong những môn học giúp trẻ phát triển nhân thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ.
Ví dụ : Trong chủ điểm “ Thế giới động vật”
Đề tài : Những con vật đáng yêu quanh bé.
- Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ trả lời “Asâo” (có nghĩa tiếng việt là con chó ). trước tình huống đó tôi nói với các cháu: “ cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không ?” và tiêt học của chúng tôi đã trở thành một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng việt mỗi khi cô đưa tranh ra.
Ví dụ: Trẻ 	Cô
	Con Mèo - 	Miêu
	Con Vịt - 	Bip
	Con Heo - 	Ũn
 Con chó	Asâo
- Một hạn chế mà trẻ người đồng bào thường mắc phải, đó là nói thiếu dấu
Ví dụ : “ Con vịt” thì trẻ đọc là “con vit”
- Tôi hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sữa sai và hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn chế được lỗi mất dấu khi phát âm.
- Với hình thức “ thi tài “ hay “ đố vui có thưởng”giữa cô và trẻ thì trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô.
- Ví dụ : Chương trình “ Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời : Thưa cô con Chó là động vật sống trong nhà
* Hoạt động làm quen với toán :
- Tôi luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ điểm với đề tài điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu
Ví dụ: Chủ điểm “ Nghề nghiệp”
- Đề tài : Đếm đến 7-nhận biêt nhóm đồ dùng có 7 đối tượng- chữ số 7 Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng các nghề như quốc, bay, tôi cho các cháu gọi tên và nói công dụng của từng đồ dùng, trẻ rất thích thú và rất vui khi mình nói đúng tên và công dụng của những đồ dùng đó. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên đồ dùng đó và với tình huống đó tôi đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ dùng thì được tham gia trò chơi cùng với cô. Và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia cuộc chơi, trẻ đã cố gắng gọi tên đồ dùng bằng tiếng việt, và khi các cháu phát âm được các cháu rất vui.
* Biện pháp 4. Kết hợp với phụ huynh giúp làm tăng vốn tiếng việt cho trẻ:
Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo rất nhiều, nhưng nếu chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có thể gặp phụ huynh, trao đổi và phân tích cho phụ huynh của các cháu hiểu được những thuận lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt.
- Ví dụ : Trao đổi với phụ huynh nếu "Cháu nghe và hiểu được Tiếng Việt thì khi vào lớp một cháu sẽ tiếp thu bài một cách tốt hơn mà tiếp thu bài tốt thì cháu sẽ học giỏi hơn
- Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em hơn, thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng Tiếng việt thay vì giao tiếp với trẻ bằng tiếng mẹ đẻ khi trẻ ở nhà, trò chuyện với trẻ nhiều hơn, hỏi trẻ tên cô, yêu cầu trẻ đọc các bài thơ, hát các bài hát mà trẻ được giáo viên dạy trên lớp. Cho nên trẻ lớp tôi hiện nay nói thạo, nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
- Lớp học đúng quy cách, chuẩn bị đồ dùng dạy học đầy đủ, đẹp mới lạ cuốn hút trẻ, các đồ dùng, đồ chơi tự tạo
- Giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, năng động, yêu nghề mến trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp tốt. Bên cạnh đó người giáo viên thường xuyên sưu tầm nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động nhằm tạo hứng thú và lôi cuốn trẻ hơn, không dừng lại ở đố bản thân người giáo viên cần phải tìm tòi không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi những kinh nghiệm của thế hệ đi trước nhằm trang bị cho mình những nghệ thuật lên lớp hay hơn nữa.
- Giáo viên là người dân địa phương nên có nhiều thuận lợi trong việc giảng dạy trẻ.
- Thường xuyên trao đổi, phối hợp với phụ huynh để cùng nhau tìm ra biện pháp tốt nhất cho việc giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao.
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp:
- Các biện pháp và giải pháp được thực hiện xuyên suốt trong quá trình hoạt động của trẻ. Và các biện pháp, giải pháp có mối quan hệ qua lại với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau để nhằm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
- Kết quả khảo nghiệm:
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến một cách rõ rệt và đạt kết quả như sau :
Huy động trẻ
và duy trì sĩ số
Khả năng nghe, hiểu
và nói tiếng Việt của trẻ tại lớp
Tổng số
học sinh
Tổng số trẻ đi học chuyên cần
Tốt
Khá
Trung bình
Kém
Tổng số
Tỷ lệ 
%
Tổng số
Tỷ lệ %
Tổng
số
Tỷ
lệ %
Tổng số
Tỷ lệ
%
Tổng
số
Tỷ lệ %
30
26
87
11
37
15
50
04
13
- Giá trị khoa học: Đề tài trên tuy chỉ là vài biện pháp nhỏ và đơn giản nhưng nó đã mang lại cho lớp chúng tôi tác dụng rất lớn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở lớp Lá Buôn MBLớt.
4. Kết quả .
- Qua quá trình nghiên cứu về một vài kinh nghiệm mà tôi tự tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng bản thân tôi thấy trẻ lớp tôi có sự chuyển biến một cách rõ rệt, có hiệu quả, và đạt được kết quả cao.
- Các cháu hứng thứ trong học tập, nhiều cháu thuộc 29 chữ cái và phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong mọi hoạt động.
- Trẻ thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh. Nhờ áp dụng các biệ

Tài liệu đính kèm:

  • doc23MỘT SỐ KINH NGHIỆM CUNG CẤP VỐN TIẾNG VIỆT CHO TRẺ DÂN ÔỘC THỂU SỐ.doc