I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Từ giữa thế kỉ XX đến nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri
thức, xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, đòi hỏi giáo dục phải đào tạo lớp người
lao động mới: Thông minh, năng động, sáng tạo. Yêu cầu đó buộc giáo dục phải
chuyển mục tiêu đào tạo từ “biết gì?” sang “có năng lực giải quyết vấn đề gì?”.
Để đạt mục tiêu đó thì việc dạy học phải chuyển từ trang bị tri thức sang bồi
dưỡng năng lực, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực sáng tạo. Theo đó,
nhiều phương pháp dạy học tích cực ra đời như: Lipet, nêu vấn đề, grap, ximina,
công nghệ giáo dục, bản đồ tư duy .Cuối những năm 90 của thế kỉ trước, một
phương pháp dạy học tích cực mới nữa ra đời có tên là phương pháp “Bàn tay
nặn bột”.
“Bàn tay nặn bột” được hiểu là phương pháp tạo cho học sinh tích cực,
chủ động trong học tập. Học sinh phải tự làm các thực nghiệm để tiếp thu các
kiến thức khoa học. Các em tiếp cận tri thức khoa học như một quá trình nghiên
cứu của chính bản thân. Trong đó vai trò của giáo viên ở phương pháp này
không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình
bày mà là giúp xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với học sinh.
Khoa học lớp 5 là môn học chiếm vị trí quan trọng ở bậc tiểu học. Đây là
môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực nghiệm như : Vật lý,
Hoá học, Sinh học, Vì vậy, môn học này có nhiều điều kiện thuận lợi để vận
dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học để bước
đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tự tìm tòi
nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho học sinh.
- Đối với các thí nghiệm cần quan sát một số hiện tượng trong thí nghiệm để rút ra kêt luận, giáo viên nên lưu ý cho học sinh chú ý vào các hiện tượng hay phần thí nghiệm đó để lấy thông tin, nhắc nhở học sinh bám vào mục đích của thí nghiệm để làm gì, trả lời cho câu hỏi nào - Đối với các thí nghiệm cần đo đạc, lấy số liệu, giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép lại các số liệu để từ đó rút ra nhận xét. Tốt nhất nên có mẫu ghi chú 13 kết quả thí nghiệm cho học sinh để học sinh ghi chú ngắn gọn, khoa học (thông qua các tờ rời phát cho học sinh lúc bắt đầu làm thí nghiệm). Điều này đối với học sinh tiểu học là rất cần thiết vì học sinh chưa thể tự mình thành lập bảng biểu hay trình bày khoa học các số liệu, thông tin thu nhận trong quan sát hay làm thí nghiệm. - Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau học sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em, giáo viên không được nhận xét đúng hay sai và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai. Khuyến khích học sinh độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo nhau. 6/ Vận dụng tiến trình sư phạm phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 5. * Các biện pháp tiến hành: a) Giai đoạn 1: Chuẩn bị Mục đích của giai đoạn này là định hướng cho một giờ lên lớp theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Do đó, giáo viên phải tiến hành các hoạt động từ việc xác định mục tiêu, nội dung bài học đến việc lựa chọn tình huống xuất phát, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho bài dạy và đồng thời dự kiến những vấn đề nảy sinh và những khó khăn trong tiết dạy để có những biện pháp xử lý. Giai đoạn này có ý nghĩa định hướng, vì vậy, việc tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” phụ thuộc nhiều vào giai đoạn này. * Công việc của giáo viên: Bước 1: Xác định mục tiêu bài học. Giáo viên phải xác định được những mục tiêu cơ bản về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà học sinh cần đạt được sau bài học. Việc xác định đúng trọng tâm bài học thì việc tổ chức cho học sinh học tập theo quy trình sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” mới tiến hành đúng hướng và đạt kết quả tốt. Bước 2: Chuẩn bị đồ dùng dạy học. Từ mục tiêu bài học, giáo viên lựa chọn các vật liệu, đồ dùng dạy học như : các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, tài liệu quy chiếu cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, điều kiện của nhà trường và của địa phương. Đây là điều kiện thuận lợi để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm trên đối tượng thật, tạo điều kiện cho các em phát huy tối đa các giác quan khác nhau tiếp xúc với đối tượng. Từ đó hình thành biểu tượng đầy đủ về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Bên cạnh vật liệu, đồ dùng dạy học được lựa chọn phải đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Việc chuẩn bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với phương pháp “Bàn tay nặn bột”, nếu không có đồ dùng dạy học thì không thể tiến hành dạy được. 14 Bước 3: Lập kế hoạch tổ chức học sinh học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Kế hoạch cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án. Trong giáo án, cần phân định rõ tiến trình của bài học bằng những hoạt động của giáo viên và học sinh, phân bố thời lượng hợp lý cho từng hoạt động, chuẩn bị vật liệu thí nghiệm, xác định mục đích, nội dụng đánh giá, lựa chọn tình huống xuất phát. Tình huống xuất phát thường là một câu hỏi, đảm bảo những yêu cầu sau : + Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở, phù hợp với mục tiêu bài học và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, sao cho các em có khả năng giải quyết. + Có tác dụng khiêu gợi trí tò mò và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em suy nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết. + Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang khái niệm mà các em chưa biết, giáo viên nên tìm từ ngữ khác thay thế sao cho vừa đảm bảo học sinh hiểu được, vừa vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của nó. + Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình cần phải làm gì. Sau đây, tôi xin nêu ra một số câu hỏi nêu vấn đề như sau : Khoa học 5 : + Bài 40 : “Sự sinh sản của ruồi” – Hãy nêu hiểu biết của em về sự sinh sản của ruồi ? + Bài 49 : “Sự sinh sản ở người” – Em bé được hình thành như thế nào ? Việc lập kế hoạch tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” có ý nghĩa quan trọng việc nâng cao hiệu quả của giờ học. Nếu giáo viên chuẩn bị chu đáo thì hoạt động dạy học trên lớp diễn ra suôn sẻ và hiệu quả hơn. Kế hoạch cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án. Trong giáo án, giáo viên cần phân định rõ tiến trình của bài học bằng những hoạt động của giáo viên và học sinh, phân bố thời gian hợp lý cho từng hoạt động. Cấu trúc của giáo án có thể như sau : Tên bài I. MỤC TIÊU : 1. Kiến thức 2. Kỹ năng 3. Thái độ * Áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột : (Ghi tên các hoạt động cần áp dụng PP BTNB) II. CHUẨN BỊ : 1. Chuẩn bị của giáo viên 15 2. Chuẩn bị của học sinh III. HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC : * Kiểm tra bài cũ * Bài mới 1. Mở bài 2. Phát triển bài : Được thiết kế theo từng hoạt động, mỗi hoạt động thể hiện rõ công việc của giáo viên và học sinh. Cần ghi cụ thể hoạt động nào áp dụng PP BTNB Hoạt động 1 : (Mục tiêu và cách thức tiến hành, lượng thời gian) - Công việc của giáo viên - Công việc của học sinh Hoạt động 2: (Mục tiêu và cách thức tiến hành, lượng thời gian) . . 3. Củng cố, luyện tập 4. Đánh giá 5. Hoạt động nối tiếp (nếu cần) * Chuẩn bị của học sinh Chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. b) Giai đoạn 2: Tổ chức học sinh học tập theo PP “Bàn tay nặn bột” Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình. Giáo viên và học sinh tiến hành các hoạt động của mình theo các bước sau đây : Bước 1: Bước này là sự xuất phát, là sự khởi điểm của một tiết học, có tác dụng kích thích trí tò mò, gây hứng thú học tập, đồng thời đặt ra nhiệm vụ cho học sinh dưới hình thức giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh đi tìm câu trả lời. Bằng khả năng phán đoán, suy luận cùng với việc huy động vốn sống, vốn kinh nghiệm, các cá nhân học sinh đưa ra những hiểu biết ban đầu về vấn đề mà giáo viên đặt ra. Bước này để cho học sinh làm việc cá nhân vì những lý do sau đây : - Đối với giáo viên : + Biết được mức độ nhận thức của từng cá nhân để tác động đến từng đối tượng học sinh một cách thích hợp ngay trong tiết học. + Kết hợp các giờ học trước và giờ học sau để làm phương tiện đánh giá sự tiến bộ của từng học sinh. - Đối với học sinh : + Học sinh nào cũng phải tiến hành suy nghĩ để ghi chép những hiểu biết của mình vào vở thí nghiệm. + Những hiểu biết cá nhân có tác dụng làm cho các em ý thức được rằng cần phải tiến hành nghiên cứu để kiểm tra xem đúng hay sai. 16 + Đưa ra những hiểu biết của mình trước nhóm để xem mọi người đánh giá như thế nào về ý kiến của mình, qua đó gây ra sự tranh luận trong nhóm. + Biểu tượng ban đầu nhằm để các em so sánh đối chiếu với biểu tượng mới (biểu tượng mới được coi là chuẩn) sau khi tiến hành nghiên cứu. + Những biểu tượng ban đầu khi học sinh đem so sánh, đối chiếu với biểu tượng mới thấy đúng hay dù chỉ đúng rất ít nhưng cũng làm cho các em vui vì thấy rằng mình có đóng góp một phần trong bài học. Vì vậy làm cho các em hứng thú học tập hơn. Bước 2 : Thảo luận nhóm để đưa ra giả thuyết của nhóm Sau khi học sinh đã đưa ra được giả thuyết cá nhân, giáo viên yêu cho các em tiến hành thảo luận nhóm để thống nhất đưa ra giả thuyết chung của nhóm. Bước này để cho học sinh thảo luận nhóm vì những lý do sau đây : - Để cho tất cả học sinh có cơ hội trình bày được ý nghĩ của mình trước tập thể. - Biết được các bạn trong nhóm quan niệm như thế nào, giống hay khác với suy nghĩ của mình, tập thể nhóm đánh giá như thế nào về giả thuyết mà mình đưa ra. - Các em đối đầu với các quan niệm khác nhau . - Gây ra không khí tranh luận khoa học xung quanh vấn đề đồng ý hay không đồng ý về giả thuyết của mỗi thành viên. - Các em học cách bảo vệ quan điểm của mình trước tập thể, qua đó làm quen với cách trình bày trước tập thể và rèn luyện kỹ năng diễn đạt nói. Những lý do trên góp phần quan trọng trong việc làm cho các em thấy được sự cần thiết phải tiến hành làm thí nghiệm hay quan sát kiểm tra giả thuyết. Đồng thời có thể làm nảy sinh các phương án thí nghiệm mới. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho bước kế tiếp. Bước 3: Kiểm tra giả thuyết. Đây là bước quan trọng nhất trong quy trình. Những hoạt động của các em ở bước này là để chấp nhận hay bác bỏ mà các giả thuyết của các em đề ra (Kể cả giả thuyết cá nhân, giả thuyết của nhóm ). Đồng thời, qua đó để khẳng định tính đúng đắn của kiến thức khoa học. 17 Có thể nói rằng, lúc này thể hiện sự tập trung cao độ sự suy nghĩ, khả năng tìm tòi, khám phá, rèn luyện óc quan sát và kỹ năng, kỹ xảo thực hành, phát huy sức mạnh tập thể cho học sinh tiểu học. Bởi vì các em phải tiến hành suy nghĩ để đưa đưa ra phương án kiểm tra giả thuyết sao cho phù hợp, được làm thí nghiệm, được quan sát sự vật, hiện tượng và cả tập thói quen tìm tài liệu quy chiếu. Để làm những công việc này, đảm bảo được lượng thời gian cho phép, các em phải vận dụng trí tuệ và sức lực của tập thể. Có nhiều con đường để kiểm tra một giả thuyết. Đối với học sinh tiểu học, do đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức, đặc điểm môn Khoa học nên khi đề xuất các phương án kiểm tra giả thuyết, giáo viên khéo léo định hướng cho các em làm thí nghiệm, quan sát sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, học sinh có thể vận dụng phối hợp một cách linh hoạt, khi thí nghiệm thì kết hợp cả quan sát (quan sát thí nghiệm) và có thể sử dụng tài liệu quy chiếu ở cuối tiết học. Do đây là bước học sinh tiến hành để kiểm tra xem giả thuyết mà họ đưa ra đúng hay sai nên khi tiến hành kiểm tra giả thuyết các em đã xác định được mục đích của thí nghiệm hay mục đích của quan sát. Khoa học lớp 5 có cả sơ đồ kênh hình và kênh chữ : sơ đồ dầu mỏ, sơ đồ khai thác và chưng cất dầu mỏ, sơ đồ mạch điện, sơ đồ các bộ phận của một đèn điện, các sơ đồ về sự sinh sản của thực vật, sơ đồ sự sinh sản ở người, sơ đồ về sự sinh sản của một số loại động vật, Khi sử dụng sơ đồ đề kiểm tra giả thuyết , giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu những vấn đề sau : * Sơ đồ phản ánh nội dung gì. * Các đối tượng thể hiện trên sơ đồ. * Xác định vị trí của chúng trên sơ đồ. Ví dụ: Bài 40 “Sự sinh sản của ếch” , giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát xem ếch phát triển qua mấy giai đoạn, xác định vị trí của chúng (Theo thứ tự vòng đời), đặc điểm của mỗi giai đoạn. * Công việc của học sinh : - Trước khi tiến hành quan sát, các nhóm phải xác định : + Quan sát những dấu hiệu nào của sự vật, hiện tượng. 18 + Tùy vào từng đối tượng quan sát mà sử dụng các giác quan khác nhau vào quá trình quan sát. + Quan sát phải đi từ tổng thể đến các bộ phận. + Quan sát dấu hiệu bên ngoài rồi mới đi vào dấu hiệu bên trong. Ví dụ : Khi quan sát một đèn điện (Bài 28 – Sử dụng năng lượng điện để thắp sáng – KH5), học sinh phải tiến hành quan sát tổng thể cái đèn điện có dây tóc, sau đó quan sát các bộ phận (phích cắm, dây, đui, bóng đèn, dây tóc của bóng đèn), rồi tháo gỡ để quan sát các bộ phận bên trong. Tiếp đến các em đối chiếu với giả thuyết ban đầu và rút ra kết luận. - Nhận đối tượng quan sát và các đồ dùng cần thiết - Tiến hành quan sát và ghi chép những gì quan sát được. - Cả nhóm tiến hành trao đổi và rút ra kết luận tạm thời. Bước 4 : Báo cáo kết quả và rút ra kiến thức bài học. Sau khi thực hiện xong thí nghiệm hay quan sát, giáo viên tiến hành tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả và rút ra kiến thức bài học. * Công việc của giáo viên : Sau khi các em hoàn thành giai đoạn kiểm tra giả thuyết, giáo viên tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả : - Cho đại diện các nhóm học sinh báo cáo kết quả. - Cùng cả lớp tiến hành so sánh kết quả giữa các nhóm, đối chiếu với giả thuyết. Trường hợp không thống nhất thì xác định nguyên nhân và xử lý nguyên nhân đó để khẳng định tính đúng đắn của chân lý khoa học. - Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức trọng tâm của bài học, chính xác hóa các khái niệm và yêu cầu học sinh tự sửa chữa, điều chỉnh kiến thức, diễn đạt biểu tượng mới một cách đầy đủ và chính xác. * Công việc của học sinh : - Đại diện các nhóm báo cáo kết quả. Các em trình bày báo cáo như sau : Chúng tôi đã thứ tự tiến hành các công việc như sau .. Sau đó chúng tôi thu được kết quả là . Đối chiếu với giả thuyết.. Từ đó chúng tôi đưa ra kết luận là : - Đối chiếu với giả thuyết ban đầu, các kết luận, cả lớp tiến hành trao đổi để đưa ra kiến thức bài học, các em có thể sử dụng tài liệu quy chiếu để so sánh với kết quả làm việc. - Dưới sự giúp đỡ của giáo viên, các em rút ra kiến thức trọng tâm bài học. - Các nhóm, các cá nhân tự sửa chữa, điều chỉnh kiến thức vào vở thí nghiệm, diễn đạt biểu tượng mới một cách hoàn chỉnh, chính xác. c) Giai đoạn 3: Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột: Đánh giá là khâu cuối cùng của bất kỳ một quá trình dạy học nào nhằm xác định tính đúng đắn của việc thực hiện quá trình cũng như kết quả của quá 19 trình ấy. Việc tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong môn Khoa học cần được đánh giá, thông qua đó để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh, đồng thời rút ra kinh nghiệm cho những lần sau. Như chúng ta đã biết, phương pháp BTNB mặc dù đã được triển khai mạnh mẽ tuy nhiên việc áp dụng vẫn chưa phải là phổ biến, đa số đang dùng lại ở mức thử nghiệm. Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã tổ chức đánh giá học sinh như sau: - Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học: Trong các tiết học theo phương pháp BTNB, học sinh được khuyến khích phát biểu ý kiến và trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ hay trước toàn thể lớp học. Trong một số trường hợp giáo viên không được nhận xét tính chính xác ý kiến của học sinh (ví dụ như khi hỏi học sinh ý kiến ban đầu), đề xuất câu hỏi, phương án thí nghiệm Tuy nhiên, giáo viên có thể khuyến khích học sinh phát biểu ý kiến bằng cách ghi chú lại số lần phát biểu ý kiến và tính chính xác cũng như sự tiến bộ của học sinh trong một tiết học hay một số tiết học nhất định. - Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm: Sự tích cực, năng động, tinh thần trách nhiệm, tính nghiêm túc trong học tập và thực hiện các hoạt động học được yêu cầu bởi giáo viên. - Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thí nghiệm: Giáo viên có thể quan sát trong quá trình học sinh ghi chép ở lớp hoặc thu vở thí nghiệm 1 lần/tháng (vào cuối tháng) hay cuối kỳ học để xem sự tiến bộ của học sinh. Việc đánh giá bằng nhận xét vào vở thí nghiệm của học sinh sẽ giúp học sinh có ý thức hơn trong làm việc tại lớp với vở thí nghiệm, đưa lại hiệu quả sử dụng của vở thí nghiệm khi thực hiện dạy học theo phương pháp BTNB. Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp BTNB là giúp cho học sinh rèn luyện các kỹ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kỹ năng, kiểm tra năng lực nhận thức (sự hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức. Sau khi có kết quả đánh giá các mặt trên, giáo viên tiến hành đánh giá toàn diện về hiệu quả của quy sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học trong tiến trình của bài học. Trong quá trình đánh giá, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Về phía học sinh : Tự đánh giá về bản thân mình, thấy được sự tiến bộ của mình, đồng thời tham gia vào việc đánh giá người khác V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Từ năm 2011, sau khi được tham gia tập huấn dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này có nhiều ưu điểm, đặc 20 biệt khơi gợi trí sáng tạo, chủ động của trẻ, kích thích trẻ hứng thú say mê trong các hoạt động học Ban đầu, chưa quen, chỉ vận dụng phương pháp này vào những buổi thao giảng để đồng nghiệp dự giờ, góp ý, rút kinh nghiệm. Về sau, quen dần, thành thạo hơn trong mọi thao tác nên đã áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào rất nhiều bài học và đạt được hiệu quả rất cao. Trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn, tôi thường thảo luận những bài học của tuần đến có thể áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột để giáo viên trong tổ có thể áp dụng nhân rộng phương pháp này. Trong 4 năm thực hiện, tôi đã tham gia giao lưu với các trường trong tỉnh và ngoài tỉnh, tổ chức nhiều chuyên đề về phương pháp bàn tay nặn bột thành công. Đặc biệt, trong kì thi giáo viên giỏi cấp tỉnh vừa qua tôi đã thực hiện thành công phương pháp này vào tiết dạy dự thi và được hội đồng giám khảo đánh giá cao trong việc góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện cho học sinh. Việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào dạy môn Khoa học đã tạo cho học sinh hứng thú và say mê khi tham gia vào hoạt động học tập, hăng say vào công việc như các nhà nghiên cứu. Các em phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo. Qua đó các em được rèn nhiều thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa thông qua các hoạt động tìm kiếm tri thức của bản thân đồng thời rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống, kĩ năng thực hành, thí nghiệm, năng lực quan sát, sáng tạo, năng lực tự học và hợp tác nhóm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nói và viết của các em cũng được phát triển thông qua việc trình bày kết quả nghiên cứu của mình. VI/ KẾT LUẬN: 21 Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đòi hỏi nhiều trang thiết bị dạy học như: thiết bị thí nghiệm, tranh ảnh, mô hình, sa bàn, sách vở tài liệu, báo chí. Nếu tổ chức không khéo, không chu đáo đẽ tốn nhiều thời gian, không thực hiện đúng kế hoạch dạy học thâm chí xảy ra tai nạn hoặc dẫn đến kết quả sai, ảnh hưởng đến niềm tin của học sinh về chân lý của vấn đề. Để đạt hiệu quả cao khi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào các hoạt động học, giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau: - Nghiên cứu nội dung chương trình, lựa chọn các bài học và nội dung kiến thức có thể áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột. - Tổ chức lớp học tốt ngay từ đầu. - Tình huống xuất phát giáo viên đưa ra phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu với học sinh. - Câu hỏi nêu vấn đề phải phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh, dùng câu hỏi mở, không dùng câu hỏi đóng. Giáo viên cần khéo léo lựa chọn một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh. Từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. - Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. - Cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn. - Vận dụng tối đa những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm để thực hiện thí nghiệm. - Sử dụng công nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí. - Giao cho học sinh chuẩn bị các vật liệu đối với thí nghiệm đơn giản. - Sắp xếp bàn ghế phù hợp với số học sinh, chia nhóm 4 – 6 em/nhóm. - Có chỗ dành riêng để vật liệu lớp học. - Trong quả trình giảng dạy khi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột : không sử dụng SGK, không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở đề bài), không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này. Tóm lại, phương pháp "Bàn ta
Tài liệu đính kèm: