* Mục tiêu của môn lịch sử lớp 5 :
Học xong lịch sử lớp 5, học sinh có một số kiến thức cơ bản về:
- Các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian
lịch sử Việt Nam nửa thế kỉ XIX đến nay.
Nội dung phân môn Lịch sử lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản
thiết thực về các sự kiện , nhân vật lịch sử tiêu biểu, sắp xếp theo thứ tự thời gian, đạidiện cho các thời kỳ lịch sử, không chứa đựng huyền thoại, truyền thuyết hay phóng
tác , hư cấu lịch sử. Về mức độ chỉ giới hạn ở mức biết lịch sử , còn yêu cầu về hiểu
lịch sử chỉ ở mức rất sơ đẳng , chủ yếu xem xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân vật
lịch sử đối với xã hội.
* Nội dung chương trình lịch sử lớp 5 :
Phân môn lịch sử ở lớp 5 cũng được không nằm ngoài cơ sở trên (29 bài
SKG, 2 tiết lịch sử địa phương; 2 tiết ôn tập và 2 tiết kiểm tra Học kì I và cuối năm
được dạy học trong 35 tuần), gồm có 4 giai đoạn lịch sử :
+ Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ (1858-1945)
+ Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954)
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước
(1954-1975)
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (từ 1975 đến nay)
iết thực về xã hội. Đó là các sự kiện và nhân vật tiêu biểu trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ đó hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện trong xã hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa học của học sinh. Để từ đó các có lòng tự hào dân tộc phát huy mọi khả năng để xây dựng một tương lai xứng đáng với lịch sử của dân tộc. 1.2. Cơ sở thực tiễn Thực tế chất lượng dạy- học môn lịch sử ở nước ta nói chung đạt hiệu quả chưa cao. Điều đó được minh chứng qua kết quả thi tuyển vào đại học, cao đẳng hàng năm. Trong những năm gần đây, thống kê cho biết có phần lớn thí sinh bị điểm dưới trung bình môn lịch sử, trong đó có nhiều điểm 0. Những ai quan tâm đến giáo dục đều cảm thấy trăn trở về vấn đề này.Vì sao như vậy? Có nhiều nguyên nhân: Do giáo viên dạy, do học sinh học, do Chương trình lịch sử mỗi tuần chỉ dạy có một tiết, bài thì dài, chủ yếu là nghe, ghi chép, đọc sách giáo khoa nên học sinh học mà không nhớ nổi bài hoặc nhớ một cách không đầy đủ chính xác về các nhân vật, sự kiện lịch sử dẫn đến trả bài các em không thuộc, thi thì không nhớ nên làm không được bài. Có khi không nắm được câu hỏi muốn hỏi gì. Một số học sinh học vẹt nên thi không nắm được yêu cầu của câu hỏi, viết lan man những gì mình thuộc dẫn đến kết quả không cao. Thực tế ở trường Tiểu học nơi tôi công tác cũng có nhiều học sinh điểm thi lịch sử thấp hơn các phân môn, môn học khác. Riêng lớp 5A1 (năm học 2016-2017) khi tôi mới nhận lớp, qua trao đổi và thông qua 1 số tiết dạy lịch sử đầu năm, tôi nhận thấy thực trạng học sinh ở lớp chỉ có khoảng một số ít em học môn này một cách tích cực còn lại nhiều em học rất thụ động. CHƯƠNG II ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở NHÀ TRƯỜNG 2.1. Tình hình chung và đặc điểm của nhà trường * Thuận lợi - Hiện nay đã có nhiều nguồn thông tin, sách báo để GV tham khảo, nghiên cứu, tự học để nâng cao tay nghề. Nội dung chương trình đã được lựa chọn biên soạn phù hợp với học sinh lớp 5 giúp các em dễ dàng tiếp cận và ham thích môn Lịch sử. - Luôn được sự quan tâm của các cấp và nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi về đồ dùng dạy học; động viên, khích lệ tinh thần dạy và học của giáo viên và học sinh. - Học sinh đã có ý thức học tập, ham học hỏi, chuyên cần. * Khó khăn: - Cơ sở vật chất còn thiếu thốn. Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đủ và phong phú. -Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn ít, giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy. Các hình thức dạy học còn đơn điệu, khô cứng . Bản thân giáo viên có phần xem nhẹ phân môn này so với Toán và Tiếng Việt. - Do phần lớn giáo viên trong giảng dạy vẫn còn nặng với phương pháp đã cũ là thuyết trình cốt sao cho học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ. Chính vì vậy học sinh không hứng thú trong các giờ lịch sử và đặc biệt không hình dung được sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ đó dễ tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy. - Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ. Vì vậy dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở lớp, ở trường. - Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của mạng Internet, của các trò chời điện tử Đã ảnh hưởng không nhỏ đến những học sinh thiếu động cơ thái độ học tập, sao nhãng việc học hành ít đọc sách, ít học bài, nhất là bộ môn lịch sử. Trên đây là một số tình hình thực tế việc dạy học môn lịch sử lớp 5 ở trường tôi đang công tác.Tất nhiên còn nhiều tồn tại ở giáo viên và học sinh. Vậy khi hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức môn lịch sử như thế nào để phát huy được tính tích cực của học sinh là một điều mà tôi và các đồng nghiệp rất quan tâm. 2.2. Điều tra thực trạng công tác dạy- học môn phân môn Lịch sử ở nhà trường Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy: Chất lượng giảng dạy môn lịch sử ở trường Tiểu học còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc trưng của môn lịch sử. Giáo viên ít đầu tư cho môn học này, dạy học còn nặng về giảng giải lý thuyết. Giáo viên thường dùng phương pháp hỏi - đáp: nêu câu hỏi gọi học sinh trả lời. Vì vậy, học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, dẫn đến học sinh không hứng thú, không thích học lịch sử. Thậm chí có những em chán học, sợ học phân môn này. Số liệu thống kê cụ thể qua phiếu điều tra về số lượng học sinh yêu thích hoặc không yêu thích học lịch sử (đầu năm học) với học sinh 2 lớp 5A1và 5A2 trường tiểu học Chu Minh: Lớp Sĩ số Điểm từ 5 trở lên Điểm dưới 5 9 -10 7 - 8 5 - 6 SL % SL % SL % SL 5A1 35 7 20,0 12 34,3 16 45,7 0 5A2 35 7 20,0 12 34,3 16 45,7 0 CHƯƠNG III : CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ 3.1. Các biện pháp thực nghiệm 3.1.1.Hình thành và rèn luyện cho học sinh kĩ năng thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Môi trường học tập của các em đối với môn lịch sử quả thật là rộng lớn, nơi các em ở, vui chơi học tập: một cái tên đường, một áp phích tuyên truyền, một di vật, một địa danh lịch sử cũng đủ làm gợi trí tò mò của các em. Chính vì vậy các em cần có thói quen quan sát cuộc sống xung quanh mình. Vì đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với môn lịch sử nói riêng, mà của tất cả các môn học khác. Như vậy, giáo viên sẽ là người giúp các em hình thành thói quen đó thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp qua từng tiết dạy, chủ điểm tháng, tuần. Ngay từ đầu năm học, tôi đã hướng dẫn mỗi học sinh có một quyển “Sổ tay lịch sử” để ghi chép những thông tin quan trọng về lịch sử mà em khám phá được, ghi lại những anh hùng dân tộc hay mốc thời gian tương ứng với các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc qua mỗi bài học,... Ví dụ : Tìm hiểu di tích lịch sử địa phương, tôi đã giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu qua những câu hỏi để gợi trí tò mò cho học sinh: - Nghĩa trang liệt sĩ xã ta là để ghi công của những ai? Có tất cả bao nhiêu bia mộ liệt sĩ ở đó? - Đình ở địa phương em có từ khi nào, thờ vị anh hùng dân tộc nào, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia năm nào? Không những giao nhiệm vụ qua những câu hỏi, giáo viên còn khích lệ các nhóm (các tổ) học sinh thi đua sưu tầm tranh ảnh về địa phương, nhóm nào, học sinh nào sưu tầm được nhiều tranh, ảnh, đồ dùng nhất thì sẽ được nhiều lá cờ nhất. Vì muốn khẳng định mình, muốn được thưởng nhiều lá cờ để lập nhiều thành tích nên học sinh rất thích thú, hào hứng muốn được tìm hiểu, khám phá để giải quyết những thắc mắc từ các thông tin mà cô giáo đưa ra qua nhiều nguồn khác nhau: Hỏi ông bà, cha mẹ, tìm kiếm trên sách báo, tìm kiếm trên mạng Internet,Tìm được rồi, các em ghi lại những thông tin, những hình ảnh sưu tầm được vào cuốn “sổ tay lịch sử”. Ví dụ 1em học sinh đã viết trong sổ tay của mình: “Đình ở thôn em được xây dựng vào cuối thế kỉ XVII (Thời hậu Lê) , thờ Nhã Lang, (tương truyền là con rể của Triệu Quang Phục), và là con trai của Lý Phật Tử,” . Có học sinh khác lại ghi: “Xã của em được thành lập vào tháng 3 năm 1946, khi đó có 4 thôn với tổng diện tích là 5,2 km2. Người dân quê em có lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm chống giặc ngoại xâm, cần cù lao động,” . Tất cả các thông tin đó đều chính xác và được cô giáo khen ngợi. Đó càng là động lực cho các em ham học hỏi và tḿ kiếm thông tin để chuẩn bị tốt cho bài học. Đây là một số tranh ảnh tiêu biểu mà học sinh đã sưu tầm được khi học bài Lịch sử địa phương: Ảnh HS sưu tầm được về đình, chùa địa phương mình Ví dụ : Ở bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, nội dung của bài học này khá gần gũi với các em, tôi giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tư liệu về tiểu sử của Bác, trao đổi trình bày trong nhóm và trước lớp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. học Việc thầy và trò chuẩn bị sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, tư liệu lịch sử tất cả đều nhằm phục vụ cho việc dạy học ở trên lớp với mục đích qua bài học học sinh phát huy được tính tích cực của mình thông qua phân môn lịch sử. Những bài văn, hình ảnh, một câu chuyện nhân vật lịch sử do chính các em sưu tầm, viết ra sẽ góp phần làm cho tâm hồn các em phong phú, và có tác động đến tất cả bạn bè xung quanh. 3.1.2. Phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh qua việc phối hợp linh hoạt, Ảnh HS sưu tầm được về Ủy ban nhân dân địa phương mình hài hòa các phương pháp dạy học. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 5 thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với từng bài, với từng đối tượng học sinh, sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên) vì hoạt động của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự vận động, nhận thức và phát triển nhưng phải được điều khiển. a. Phương pháp nêu vấn đề Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy học được nhiều người đánh giá là có hiệu quả cao, sử dụng phương pháp dạy học này sẽ kích thích tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trên lớp. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề" (Rubinstein) Ví dụ bài : Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Phần giới thiệu giáo viên dẫn lời câu hát trong bài Em là mầm non của Đảng: “ Có sách mới áo hoa đây là nhờ ơn Đảng ta - Vui tung tăng em ca có Đảng cuộc đời nở hoa!” Vậy Đảng là tổ chức có vai trò to lớn như thế nào? Đảng đã ra đời ở đâu? Ai là người giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? Bài học hôm nay sẽ giúp các em trả lời những câu hỏi này. Ví dụ bài : Bài “Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947” phần giới thiệu bài giáo viên nói: Sau tiếng súng mở đầu ở Hà Nội ngày 19-12-1946, quân dân ta đã phá tan kế hoạch tấn công Việt Bắc của địch trong chiến dịch thu- đông 1947. Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này? Diễn biến của chiến dịch ra sao? Ý nghĩa của chiến dịch là gì? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua bài hôm nay “Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947”. Với cách nêu vấn đề để giới thiệu bài hấp dẫn như vậy, học sinh vô cùng thích thú, có tâm thế sẵn sàng đến với bài học.. b. Phương pháp trực quan Một trong những phương pháp dạy học không thể thiếu được khi dạy phân môn lịch sử là phương pháp trực quan. Những phương tiện trực quan được sử dụng nhiều để dạy môn lịch sử là: - Tranh ảnh. - Bản đồ lịch sử. - Các phương tiện nghe nhìn. - Di tích lịch sử. Phương pháp này thường áp dụng đối với những bài có nội dung về nhân vật lịch sử: (Trong chương trình SGK- Lịch sử lớp 5, Dạng bài này có ở các bài: bài 1; bài 2; bài 5; bài 6). Các bài có nội dung đề cập tới các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, phản công, tiến công ( các bài: ) Ví dụ: Khi dạy bài “Bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” (trang 15) - Giới thiệu bài: Mở đầu cho bài học giáo viên dán hình ảnh bến nhà Rồng và hỏi: Đố các em biết hình ảnh trên là địa danh nào? +HS sẽ hào hứng trả lời, lôi cuốn các em tham gia vào tiết học, tìm hiểu xem bức tranh trên là địa danh nào. Sau đó GV dùng nó để giới thiệu bài mới. Áp dụng phương tiện trực quan là bản đồ vào dạy học, các em sẽ có sự tri giác cụ thể hơn, có thể ghi nhớ và khắc sâu được nội dung hơn. Hình 2: Nguyễn Tất Thành ( 1890 – 1969) Hình 3: Bản đồ Việt Nam - Giới thiệu một số hình ảnh về quê hương của Bác cho HS xem: Hoàng Trù quê ngoại Làng Sen quê nội Ngôi nhà Bác sống thời niên thiếu Nhà sàn của Bác + Qua các hình ảnh này, HS sẽ thấy được Bác sinh ra từ vùng quê của xứ Nghệ nghèo khổ : “ Làng Sen đóng khố thay quần. Ít cơm nhiều cháo xoay quần quanh năm” Với những hình ảnh sinh động, đa dạng và phong phú đó sẽ đọng mãi trong kí ức HS, các em sẽ thích thú với tiết học Lịch sử vì kiến thức chẳng hề khô khan mà trái lại rất dễ nhớ. Ví dụ: “ Bài 26: Tiến vào dinh Độc Lập” ( tr 55) Hình 10: Lữ đoàn xe tăng 203 tiến vào dinh H 11: Xe tăng 390 húc đổ cổng dinh Lá cờ tung bay trên nóc dinh Độc Lập, Tiếng reo hò sung sướng mừng giờ phút lịch sử đất nước được thống nhất và độc lập. Bắc Nam sum họp một nhà. Qua đó các em thấy được tinh thần hào hùng, oanh liệt trong chiến dịch này. Những hình ảnh đó sẽ khắc sâu vào trí nhớ của các em. Ví dụ: Tìm hiểu về đường Trường Sơn, GV cho HS quan sát những hình ảnh dưới đây và đặt câu hỏi : Em có nhận xét gì về khi quan sát hình ảnh dưới đây? Phương pháp này giúp cho HS có biểu tượng sinh động, cụ thể về sự kiện lịch sử, kết hợp với việc đối chiếu với sách giáo khoa, phân tích, tổng hợp để tìm ra câu trả lời. Chứ không phải chỉ tưởng tượng suông và đọc sách trả lời, mang cái nhìn cụ thể cho hs, bồi dưỡng cảm xúc, tình cảm yêu nước, thương nòi cho học sinh. c.Phương pháp kể chuyện - Áp dụng với những dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử: ( Trong chương trình SGK- Lịch sử lớp 5, Dạng bài này có ở các bài: bài 1; bài 2; bài 5; bài 6). Thông thường đối với dạng bài này giáo viên nên sử dụng các phương pháp như kể chuyện, sắm vai .... Giáo viên có thể vừa là người dẫn chuyện, trực tiếp kể chuyện có thể là người dẫn dắt, gợi ý giúp học sinh nắm vững cốt truyện. Ví dụ: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, giáo viên kể chuyện “Hai bàn tay”. Khi vào Sài gòn Nguyễn Tất Thành gặp lại anh Tư Lê người quen cũ lúc còn ở Phan Thiết . Người tâm sự với Tư Lê: Tôi muốn ra các nước phương Tây xem họ làm như thế nào sau đó trở về giúp đồng bào chúng ta . Nhưng chúng ta lấy tiền đâu để đi Tư Lê nói lại. Nguyễn Tất Thành giơ hai bàn tay nói: “Đây tiền đây, tiền đây! Chúng ta làm bất cứ việc gì để sống và để đi.” Tư Lê không giữ lời hứa, Bác một mình làm phụ bếp trên tàu La-tu-sơ-trơ-rê-vin ra nước ngoài tìm đường cứu nước.Bác đã bôn ba hơn 30 năm ở nước ngoài, làm đủ mọi nghề để sống như phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết, phóng ảnh, vẽ đồ cổ mĩ nghệ Trung Quốc, dạy học, viết báovà tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.Thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng cứu nước, học sinh càng biết ơn Bác đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta để có cuộc sống như ngày nay. Ví dụ: “ Bài 17: Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ” ( trang 37) GV dùng phương pháp kể chuyện kể cho HS nghe câu chuyện anh hùng: Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng,.. Sau đó cho HS quan sát những bức hình sau: H17: Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng H18: Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo HS Tiểu học rất thích nghe kể chuyện, Giáo viên vận dụng phương pháp kể chuyện vào dạy học đã giúp các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, dễ nhớ, và thú vị. 3.1.3. Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua việc đổi mới các hình thức tổ chức dạy học. Trong hoạt động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc học sinh nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học tập, học sinh sẽ say mê trong học tập, việc lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn và ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức hiểu được bài thì người học lại có thêm hứng thú học tập, nhờ đó kết quả học tập của các em ngày càng được nâng cao, phát triển một cách tích cực. Như đại văn hào Macxim Goocki khái quát: “Tài năng, nói cho cùng là tình yêu đối với công việc”. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú học tập cho người học là một trong những yêu cầu nhất thiết đối với việc dạy học. Với các kiểu bài có dạng bài ôn tập, tổng kết; các bài về nhân vật, sự kiện, tôi đã vận dụng tổng hợp phương pháp như hoạt động nhóm, hỏi đáp, quan sát,.. thông qua hình thức tổ chức trò chơi tạo hứng thú học tập cho các em. * Trò chơi giải mật mã Phần củng cố bài học, giáo viên đưa ra một bông hoa bằng giấy có 4 cánh, mỗi cánh hoa là mỗi dữ kiện, nhụy hoa là một “mật mã” : * GV nêu câu hỏi để học sinh tìm ra các dữ kiện trên mỗi cánh hoa: - Cánh hoa 1: Ngày 5/6/1911 đã diễn ra sự kiện lịch sử gì? - Cánh hoa 2: Cách mạng tháng Tám thành công vào thời gian nào? - Cánh hoa 3: Ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa? - Cánh hoa 4: “ Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai xâm phạm được,...quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...” là đoạn trích trong tác phẩm nào? * Cho học sinh lựa chọn cánh hoa để trả lời. * Khi đã tìm được tất cả câu trả lời ở các cánh hoa, giáo viên cho học sinh tìm mối liên hệ giữa các dữ kiện đó để giải mật mã ở nhụy hoa. * Đáp án: - Cánh hoa 1: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước - Cánh hoa 2: 19/8/1945. - Cánh hoa 3: 2/9/1945. - Cánh hoa 4: Tuyên ngôn Độc lập. - Nhụy hoa: “Mật mã: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập” * Trò chơi ô chữ Sau phần ôn tập, hệ thống hoá có thể cho học sinh chơi trò chơi “Ô chữ” để củng cố kiến thức. Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập: Chín năm kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc (1945- 1954)” ( trang 40), GV có thể cho HS chơi trò chơi ô chữ như sau: a/ Chuẩn bị: - Ô chữ gồm 8 ô hàng ngang và 1 ô hàng dọc 1 2 3 4 5 6 7 8 - Dựa vào các gợi ý sau để tìm chữ cái : 1- Để đẩy lùi giặc đói, Bác Hồ tổ chức ngày này ? 2- Để đẩy lùi giặc dốt, Bác Hồ tổ chức lớp học này ? 3- Nhân dân Phú Thọ đã làm gì để chống quân Pháp nhảy dù ? 4- Thu - Đông 1947, Việt bắc trở thành: “......Giặc Pháp”. 5- Ngày 16/09/1950, quân ta nổ súng tấn công cứ điểm này ? 6- Tên của người anh Hùng “Chặt cánh tay phá đồn địch” ? 7- Ngày 01/05/1954, ta mở.... tấn công lần thứ 3 đánh chiếm các cứ điểm còn lại trong chiến dịch Điện Biên Phủ. 8- Tên của người anh hùng lấy thân mình lấp lỗ châu mai - Đáp án: 1 N G À Y Đ Ồ N G T Â M 2 B Ì N H D Â N H Ọ C V Ụ 3 C Ắ M C H Ô N G 4 M Ồ C H Ô N 5 Đ Ô N G K H Ê 6 L A V Ă N C Ầ U 7 Đ Ợ T 8 P H A N Đ Ì N H G I Ó T - Tất cả các chữ cái ghép lại thành từ “ Thắng lợi”. Đây là phương pháp học mà chơi, chơi mà học có hiệu quả giáo dục cao. Học sinh phát tận dụng hết vốn kiến thức của mình để có thể trả lời đúng câu hỏi. Khuyến khích được tất cả các Hs trong lớp được tham gia, tạo không khi sôi nổi, vui tươi, hào hứng trong các em. * Hình thức tổ chức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp Ngoài việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học qua một số trò chơi học tập như đã nêu, tôi còn tổ chức cho học sinh được đi thăm quan các di tích lịch sử địa phương như : đình, chùa Chu Quyến - di tích lịch sử cấp quốc gia. Học sinh còn được vào viếng các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ xã nhà. Tất nhiên là giáo viên không quên nhắc học sinh đem theo sổ tay lịch sử để ghi chép và lưu giữ những điều thu thập được. Học sinh rất phấn khởi, hào hứng với hoạt động này. Qua mỗi chuyến thăm quan như vậy, các em được hiểu thêm về truyền thống lịch sử địa phương nói riêng và lịch sử của dân tộc ta nói chung. Từ đó giáo dục cho học sinh lòng yêu nước và tự hào dân tộc, ý thức và trách nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước. Mặt khác, góp phần giúp học sinh thêm yêu lịch sử và thích học phân môn lịch sử. Ảnh học sinh lớp 5A1 thăm di tích lịch sử địa phương Như vậy, qua việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học bằng một số trò chơi và thăm quan thực tế các di tích lịch sử địa phương đã tạo cho các em hứng thú học tập rất lớn. Các em nắm nội dung bài nhanh hơn, hiểu sâu hơn và khắc sâu- nhớ lâu hơn. Nhiều em bày tỏ mon
Tài liệu đính kèm: