Trong dạy học. Nhất là việc giảng dạy môn GDQP – AN việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất quan trọng vì trong môn này việc dạy thực hành ngoài sân bãi không gian, diện tích lớn nếu việc sử dụng đồ dùng dạy học không khéo sẽ mất nhiều thời gian trong tiết dạy dẫn đế hiệu quả trong tiết dạy không cao.
VD:
- Dạy tiết ném lựu đạn xa chúng đích, chúng mục tiêu. Nếu để HS tự do ném, không có đồ dùng hỗ trợ thì công việc thu gom lựu đạn sau mỗi lần ném mất rất nhiều thời gian.
- Hay bài bắn súng CKC bài 1b. Nếu chúng ta cắm bia cách 100m mà giảng lý thuyết thì một số em khá giỏi nắm bắt được. còn một số em còn chưa biết ngắm thế nào, ngắm vào đâu. Mà mỗi lần như vậy giáo viên lại di chuyển để giải thích cho HS thì mất nhiều thời gia và công sức.
Chính vì vậy tôi đã vận dụng và sáng tạo ra hai mô hình phục vụ các nội dung này để giảm thiểu số thời gian và công sức của giáo viên khi giảng dạy cũng như giúp HS nắm bài học rễ dàng và hiệu quả hơn.
ổi mới mạnh mẽ, sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh giá đòi hỏi giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn kiến thức. Đồng thời, cần cải tiến phương pháp học tập của học sinh, để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh, năng lực giảng dạy của giáo viên, từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Qua đó tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong môn Giáo dục quốc phòng – An ninh.” Với lí do trên, tôi chọn đề tài này. Nhưng trong quá trình nghiên cứu, tất sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, bởi đây là 1 đề tài rất mới mẻ. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp góp ý, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài này. Và nếu thành công, đó sẽ là cơ sở để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu ở những bài, chương rộng hơn sau này. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang bước vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương pháp giảng dạy là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo và đào tạo khả năng tự học cho học sinh. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải tạo cho học sinh sự hứng thú đối với môn học và tham gia đầy đủ các tiết học lí thuyết cũng như thực hành. Đặc biệt đối với môn giáo dục QP-AN, một môn học khá mới mẻ với các em học sinh khi mới bước vào bậc THPT. Mỗi tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh những tri thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Qua các tiết học thực hành các em còn được làm quen với tác phong quân đội như điều lệnh, đội ngũ; các tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu; băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù. Đồng thời các bài tập còn rèn luyện cho các em sức khỏe, khả năng phản ứng mau lẹ, tác phong chuẩn mực, chững chạc hơn trong cuộc sống. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho các em trong mỗi tiết học dù là lí thuyết hay thực hành cũng là điều hết sức cần thiết và phải được đặt lên hàng đầu trong việc giảng dạy bộ môn giáo dục QP-AN. Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa, là bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên không thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và phải được quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng hiện tại và tương lai. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ a. thuận lợi. Trường THPT Số 1 Bảo Thắng là một trường có bề dày lịch sử 45 năm xây dựng và trưởng thành. về kết quả đào tạo học sinh và là trường đạt chuẩn quốc gia, nên vấn đề chuyên môn giảng dạy luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát , tạo điều kiện đầu tư cơ sở vật chất cũng như đồ dùng học tập và thao luyện . Trường có một đội ngũ sư phạm hùng hậu đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chuyên môn vững, nhiệt tình, tận tụy với công tác quản lý và giảng dạy. Hội đồng sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều thế hệ, và luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau. Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học. Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ. Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt. b. Khó khăn Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên được đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy được đào qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về chuyên môn thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy. Đối với học sinh : Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ phía không ít phụ huynh nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Và một phận nhỏ học sinh còn coi đây là môn học phụ, học để cho có điểm dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh chưa cao. Tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo dục quốc phòng – an ninh cũng làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị hạn chế nhất định. Nhiều tiết học còn mang tính hình thức, học sinh chưa tích cực, nhiệt tình trong giờ học Chất lượng dụng cụ, trang thiết bị cho môn học còn thiếu và chất lượng không đạt yêu cầu: Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung, súng tấp chất lượng kém chỉ tập được một vài lần là súng hỏng. Đặc biệt chất lượng máy bắn tập TB 95 không sử dụng được. Sân bãi chuyên dụng không có. Ví dụ như : giao thông hào, các loại địa hịnh, địa vật che khuất dẫn đến việc áp dụng thực tế vào giảng dạy gặp nhiều khó khăn. 3. CÁC BIỆN PHÁP Đà TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 3.1. Đổi mới phương pháp dạy lý thuyết và thực hành. 3.1.1. Soạn bài lý thuyết bằng phương pháp trình chiếu - Về thiết kế bài giảng: Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vô ích. Các công đoạn thường theo một qui trình sau: - Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu gọn cho phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống), chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắc hay các trích dẫn tuyệt đối không bê nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưng vẫn phải có bài soạn - Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không quá lớn, chiếm quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho đảm bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình, đồ thị để chuyển các slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn. - Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài giảng và giửa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo viên đang giảng ở trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ của bài giảng bằng cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng ban đầu Tóm lại, giáo viên có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà không phải lần tìm mất thời gian. - Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với mỗi tiết, mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư liệu nên vừa đủ minh họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm loãng thông tin và ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích cho môn học được thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học sinh thu hoạch, liên hệ với bài giảng. - Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử: Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết bảng, thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh hơn.Tuy nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay không phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ của người học. Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQP-AN sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên và người học những kết quả thiết thực. 3.1.2. Giảng thực hành theo ba bước. - Bước một làm nhanh. - Bước hai làm chậm có phân tích. - Bước ba làm tổng thể. Làm theo phương pháp này giáo dục cho HS hiểu và biết được các nguyên tắc, tính kỷ luật trong quân đội 3.2. Đổi mới các sử dụng đồ dùng dạy học. Trong dạy học. Nhất là việc giảng dạy môn GDQP – AN việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất quan trọng vì trong môn này việc dạy thực hành ngoài sân bãi không gian, diện tích lớn nếu việc sử dụng đồ dùng dạy học không khéo sẽ mất nhiều thời gian trong tiết dạy dẫn đế hiệu quả trong tiết dạy không cao. VD: - Dạy tiết ném lựu đạn xa chúng đích, chúng mục tiêu. Nếu để HS tự do ném, không có đồ dùng hỗ trợ thì công việc thu gom lựu đạn sau mỗi lần ném mất rất nhiều thời gian. - Hay bài bắn súng CKC bài 1b. Nếu chúng ta cắm bia cách 100m mà giảng lý thuyết thì một số em khá giỏi nắm bắt được. còn một số em còn chưa biết ngắm thế nào, ngắm vào đâu. Mà mỗi lần như vậy giáo viên lại di chuyển để giải thích cho HS thì mất nhiều thời gia và công sức. Chính vì vậy tôi đã vận dụng và sáng tạo ra hai mô hình phục vụ các nội dung này để giảm thiểu số thời gian và công sức của giáo viên khi giảng dạy cũng như giúp HS nắm bài học rễ dàng và hiệu quả hơn. a. Sản phẩn 1(Bia ném lựu đạn đa năng) áp dụng với bài ném lựu đạn xa chúng đích, chúng mục tiêu. - Sử dụng bia số 8 có chân đế vững(Bằng si măng hoặc sắt). Chân của bia bố trí một lò so để khi HS có ném và bia bia cũng không đổ mà chỉ dao động. - Bên cạnh đó tôi bố trí một bộ lưới đường kính bẳng đường kính của sân ném lựu đạn để khi HS ném lựu đạn vào khoảng đó lựu đạn sẽ không di chuyển ra xa mà dưới sức đỡ của lưới lựu đạn sẽ lăn về một chỗ. Do đó việc nhặt lựu đạn sẽ dễ dàng và nhanh chóng. b. Sản phẩm 2 (Bia ngắm xa gần). Áp dụng với bài “Cách bắn súng CKC - AK” - Sử dụng một bia con và một thước ngắm dời. Khi áp dụng bia thật cấm đúng cự ly còn giáo viên giảng lý thuyết bằng bia con và thước ngắm dời. Bằng phương pháp này HS nhanh chóng biết lấy đường ngắm cơ bản, các em biết thế nào là đường ngắm đúng, đường ngắm cơ bản. Quan trọng hơn là làm cho các em HS yếu kém nắm được bài. VD: Tiết 18 khối 11 Bµi 4: c¸ch b¾n sóng CKC - Ak Môc tiªu. - Gióp hoc sinh n¾m ®îc mét sè néi dung c¬ b¶nvÒ lÝ thuyÕt b¾n, ®éng t¸c b¾n vµ biÕt b¾n môc tiªu cè ®Þnh. - Häc sinh n¾m ®îc lÝ thuyÕt b¾n, thùc hµnh ng¾m b¾n môc tiªu cè ®Þnh mét c¸ch c¬ b¶n chÝnh x¸c. - ChÊp hµnh nghiªm quy ®Þnh giê häc, luyÖn tËp nghiªm tóc ®¹t chÊt lîng. §Þa ®iÓm, ph¬ng tiÖn. §Þa ®iÓm: S©n v¨n ho¸ ngoµi trêi. Ph¬ng tiÖn: - Sóng AK 4 khÈu. - §ång tiÒn di ®éng: 4 c¸i. - Bia ng¾m chôm: 4 c¸i. - Bao c¸t: 4 bao. - ChiÕu: 4 c¸i. - Bót bi: 4 c¸i. - KÝnh kiÓm tra: 1 c¸i - Bia sè 4: 1 c¸i. Lªn líp 1.æn ®Þnh tæ chøc: 2.Nªu néi dung, môc tiªu bµi häc. 3.Gi¶ng bµi míi: 4.LuyÖn tËp: 5.Cñng cè bµi: 6.KiÓm tra: Néi dung Ph¬ng ph¸p tæ chøc TiÕt 18 Ng¾m b¾n. Kh¸i niÖm vÒ ng¾m b¾n Ngêi b¾n sau khi íc lîng cù li, lÊy thíc ng¾m t¬ng øng, dïng bé phËn ng¾m ng¾m vµo môc tiªu vµ bãp cß, lµm nh vËy gäi lµ ng¾m b¾n. §êng ng¾m c¬ b¶n §êng ng¾m c¬ b¶n lµ ®êng th¼ng tõ m¾t ngêi ng¾m qua khe thíc ng¾m ®Õn ®Ønh ®Çu ng¾m, sao cho ®Ønh ®Çu ng¾m n»m gi÷a vµ ngang b»ng víi 2 mÐp trªn cña khe thíc ng¾m, mÆt sóng kh«ng nghiªng. §êng ng¾m ®óng. §êng ng¾m ®óng lµ ®êng ng¾m c¬ b¶n ®Õn môc tiªu ®iÞnh ng¾m Thø tù thùc hµnh ng¾m. LÊy thíc ng¾m. Thíc ng¾m t¬ng øng víi cù li. LÊy ®êng ng¾m c¬ b¶n. LÊy ®êng ng¾m ®óng. C¸c yÕu tè ¶nh hëng ®Õn kÕt qu¶ b¾n. LÊy sai ®êng ng¾m c¬ b¶n. LÊy sai ®êng ng¾m ®óng. MÆt sóng nghiªng. ¶nh hëng do giã. TËp ng¾m chôm. ý nghÜa. Gióp ngêi tËp biÕt ®îc møc ®é chÝnh x¸c ®êng ng¾m cña m×nh khi ng¾m b¾n, ®Ó tõ ®ã cã thÓ ®iÒu chØnh khi ng¾m. Gióp gi¸o viªn biÕt møc ®é tõng ngêi ®Ó híng dÉn söa ch÷a hoÆc bæ sung nh÷ng thiÕu sãt. Thùc hµnh ng¾m chôm. LÊy ®êng ng¾m mÉu. TËp ng¾m chôm. Trôc nßng sóng ®êng ®¹n MÆt ph¼ng ngang (thước ngắm rời) BÖ b¾n Híng b¾n Gv (bia số 4 con) Gi¸o viªn ph©n tÝch vµ thÝ ph¹m ®éng t¸c. Häc sinh theo dâi ghi chÐp. Gv lÊy ®êng ng¾m mÉu vµ tæ chøc cho häc sinh tham quan ®êng ng¾m mÉu. 3.3. Tổ chức thi đấu ở các nội dung hội thao. Ở một số nội dung như: Điều lệnh; tháo lắp súng; các tư thế vận động trên chiến trường. Nếu giáo viên giảng dạy bình thường như một tiết học thì HS sẽ nhàm chán và chính giáo viên cũng không tuyển chọn được VĐV tham gia vào hội thao quốc phòng. Mặt khác với tâm sinh lý lứa tuổi học trò việc thi đấu, phân thứ hạng thì học sinh sẽ rất hứng thú và tham gia nhiệt tình. Từ đó việc HS tiếp thu bài học sẽ đạt hiệu quả cao. Để áp dụng được hiệu quả phương pháp này giáo viên cần phân bố thời gian trong một tiết học thật hợp lý để khi áp dụng nội dung thi đấu vào sao cho đạt hiệu quả cao. 3.4 Áp dụng phương pháp trò chơi Quốc phòng vào giảng dạy. a. Đánh chiếm lô cốt(Đánh trận giả): - Tình huống giả định: Một nhóm địch đang cổ thủ tại một lô cốt được trang bị một súng máy và các loại vũ khí khác. Chúng đang từ lô cốt bắn sối sả ra làm chậm được tấn công của quân ta. - Nhiệm vụ: Một tiểu đội có nhiệm vụ tiêu diệt lô cốt để quân ta hành quân tấn công được rễ dàng. - Chuẩn bị: Một loa cá nhân chạy thẻ nhớ có cà tiếng súng đạn bắn(Hiện nay loa cá nhân này học sinh có rất nhiều). Một số bao cát; nghế giáo viên để là vật che chắn. - Vũ khí được trang bị: Súng tiểu liên AK; Bộc phá khối hoặc ống; Lựu đạn - Cách chơi: Tiểu đội trưởng tập trung tiểu đội của mình giao nhiệm vụ từng thành viên. Chia làm ba mũi tấn công. + Mũi một gồm hai đồng chí tấn công bên trái được trang bị súng AK; một khối bộc phá; lựu đạn. Nhiệm vụ đạt bộc phá ở lỗ châu mai. + Mũi hai: Hai đồng chí đánh trực diện được trang bị súng AK; lựu đạn. Nhiệm vụ thu hút hỏa lực địch về phía mình để thuật lợi cho mũi một vận động tiêu diện mục tiêu. + Mũi ba: Ba đồng chí tấn công bên phải được trang bị súng AK, lựu đạn. Nhiệm vụ thu hút hỏa lực của địch và tiêu diệt những tên còn sống sót và bỏ chốn. Các em HS khi thực hiện trò chơi này phải nắm chắc các tư thể vận động trên chiến trường, các lợi dụng địa hình địa vật vì khi tiếp cận mục tiêu các em phải sử dụng những kỹ thuật đó. Qua trò chơi này các em nắm chắc và biết các áp dụng các động tác vận động trên chiến trường, biết cách lợi dụng địa hình địa vật VD: Tiết 26 khối 12 BÀI 7: LỢI DỤNG ĐỊA HÌNH, ĐỊA VẬT Tiết 2: Cách lợi dụng địa hình, địa vật I. MỤC TIÊU 1. Kiến thức: - Nắm được vị trí lợi dụng, tư thế động tác khi lợi dụng các loại địa hình, địa vật 2. Kỹ năng: - Bước đầu vận dụng phù hợp các tư thê, động tác với các lại địa hình, địa vật và trong các tình huống khác nhau 3. Thái độ: - Có ý thức, thái độ đúng đắn, nghiêm túc, không ngại khó, không ngại bẩn II. CHUẨN BỊ 1. Chuẩn bị của giáo viên: - Giáo án, SGK, SGV, các tài liệu liên quan đến bài học - Súng TL AK: 4 khẩu, lựu đạn 4 quả, cờ tượng trưng, vật che khuất, che đỡ - Bồi dưỡng cán bộ chuyên trách 2. Chuẩn bị của học sinh: - Đọc trước nội dung của tiết học - Trang thiết bị quy định III. CẤU TRÚC NỘI DUNG 1. Cấu trúc nội dung: - Lợi dụng địa hình, địa vật che khuất - Lợi dụng địa hình, địa vật che đỡ - Lợi dụng địa hình trống trải 2. Nội dung trọng tâm: - Tư thế, động tác khi lợi dụng địa hình địa vật che đỡ, che khuất và địa hình trống trải IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định lớp: - Lớp trưởng tập trung lớp, kiểm tra quân số, trang phục, vật chất quy định. Sau đó báo cáo giáo viên - Giáo viên nhận lớp và kiểm tra lại 2. Kiểm tra bài cũ: - Hãy lấy các ví dụ về địa hình, địa vật che khuất, che đỡ và địa hình trống trải? - Nêu lại ý nghĩa, yêu cầu khi lợi dụng? - Nêu những điểm chú ý khi lợi dụng? 3. Giảng bài mới: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh Hoạt động 1: Lợi dụng địa hình, địa vật che khuất, che đỡ và địa hình trống trải (7 Phút) * GV giới thiệu lần lượt cách lợi dụng các loại địa hình địa vật theo trình tự - Nêu vị trí lợi dụng: - Tư thế động tác khi lợi dụng: Cho HS quan sát hình ảnh về động tác Hướng dẫn thực hành động tác theo 2 bước: + Làm nhanh + Làm chậm, có phân tích động tác - Gọi 3 HS lên thực hiện động tác - Nhận xét và nêu những điểm chú ý khi thực hiện động tác lợi dụng Lớp tập trung theo đội hình Học sinh chú ý nghe giảng Tập trung quan sát hình ảnh minh hoạ, tư thế, động tác mà GV làm mẫu Lên thực hiện động tác theo chỉ định của GV Hoạt động 2: Luyện tập (15 phút) GV luôn bao quát toàn bộ lớp Uốn nắn, sửa sai động tác cho học sinh Lớp chia làm 4 tổ luyện tập theo sự chỉ huy của cán bộ chuyên trách . Học sinh tích cực luyện tập theo sơ đồ V. Trò chơi: 10 phút VI. CỦNG CỐ GV gọi 4 HS đại diện của mỗi tổ lên thực hiện lại động tác theo yêu cầu của GV Nhận xét, bổ sung và kết luận 4 học sinh đại diện cho mỗi tổ lên thực hiện theo yêu cầu của GV, số học sinh còn lại chú ý quan sát và cho nhận xét Lớp trưởng tập trung lớp theo sơ đồ: VI. TỔNG KẾT, ĐÁNH GIÁ - Nhận xét ý thức thái độ học tập của học sinh - Nhắc nhở học sinh vệ sinh bãi tập,ôn tập động tác, đọc nội dung bài sau - Kiểm tra lại trang thiết bị - Đánh giá, xếp loại giờ học. Ngoài ra còn có thể áp dụng trò chơi giải mật mã bằng tín hiệu Morse. Tuy nhiên trò chơi này tương đối khó đòi hỏi HS phải được tập nhiều mới giải được mật thư. Qua thực nghiệm giờ dạy kết quả cho thấy HS rất hứng thú học, phát huy được tính tự giác tích cực của HS. HS hăng hái cộng tác, tư duy để đạt hiểu quả cao nhất. Bên cạnh đó giáo viên cũng thấy hứng thu hơn khi giảng dạy. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm : Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với sự cố gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy cho các học sinh hai khối lớp 10, 12 của Trường THPT Số 1 Bảo Thắng. So sánh với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và các giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau : - Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn. - Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn. - Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh đư
Tài liệu đính kèm: