2. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu
tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở, nhằm mục đích:
- Cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận.
- Rèn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào
bài văn nghị luận.
- Thông qua việc rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn
nghị luận, nhằm góp phần hoàn thiện năng lực giao tiếp cho học sinh. Bởi vì,
văn bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng vừa là phương tiện vừa là sản
phẩm giao tiếp
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với khả năng và tài liệu cho phép, tôi xác định Sáng kiến kinh nghiệm
những nhiệm vụ chính như sau:
3.1. Xây dựng những tiền đề lí thuyết và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho
việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh
THCS.
3.2. Đề xuất nội dung, phương pháp và các hình thức rèn luyện kĩ năng đưa
yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận.
3.3. Tổ chức thực nghiệm dạy học để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu
quả của các giải pháp được đề xuất.
, thơ; Thực hành nói, viết văn
bản nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn đề tư
tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ.
Nhìn nhận lại nội dung chương trình SGK Ngữ văn THCS về phần Làm
văn chúng tôi thấy, học sinh được cung cấp tri thức về các kiểu văn bản và được
hình thành các kĩ năng để tạo lập các kiểu văn bản đó. Càng lên cao thì yêu cầu
về tạo lập các kiểu văn bản càng cao. Riêng kiểu văn bản nghị luận THCS, học
sinh được học cả kiến thức lí thuyết và kĩ năng thực hành. Lớp 8, bước đầu học
sinh được rèn luyện kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn
nghị luận. Tuy nhiên thời lượng dành cho rèn luyện kĩ năng không nhiều. Mỗi
loại kĩ năng chỉ được luyện tập trong một tiết. Điều đó dẫn đến những khó khăn
không thể tránh khỏi đối với cả người dạy và người học.
Đối chiếu với chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành về mức độ cần đạt của học sinh lớp 8 khi học kiểu văn bản nghị luận
(Hình thành kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận/ Hiểu yêu cầu và biết cách đưa
các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận), tôi thấy nhiệm vụ và
trách nhiệm của giáo viên khi dạy phần làm văn lớp 8 là vô cùng nặng. Giáo
viên cần suy nghĩ lựa chọn và tìm ra phương pháp dạy học thích hợp nhất mới
có thể đáp ứng được yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng nêu trên.
Nguyên tắc dạy học tạo lập văn bản là phải gắn lí thuyết với thực hành. Do
vậy, sau mỗi bài học lí thuyết đều có bài tập thực hành và giờ luyện tập thực
hành. Tuy nhiên, qua tìm hiểu SGK, sách bài tập và một số sách tham khảo về
Ngữ văn 8, tôi cũng nhận thấy rằng, bài tập luyện tập thực hành chưa nhiều,
chưa biên soạn thành hệ thống. Riêng đối với bài Luyện tập Đưa yếu tố biểu
cảm vào bài văn nghị luận (Chương trình Ngữ văn 8), tôi thấy sách giáo khoa
19
chỉ đưa ra 1 bài tập luyện tập. Như vậy rất khó giúp học sinh hình thành được
kĩ năng. Do vậy, để việc rèn luyện kĩ năng vận dụng tốt cách đưa yếu tố biểu
cảm vào bài văn nghị luận cần xây dựng hệ thống bài tập phong phú có hệ thống
và cụ thể hơn.
Tóm lại, qua khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn và
thực tiễn dạy học của giáo viên, học sinh về văn nghị luận lớp 8, tôi thấy rằng để
nâng cao chất lượng làm văn nghị luận cho học sinh cần phải tổ chức rèn luyện
các kĩ năng phục vụ cho việc viết văn nghị luận. Trong đó có kĩ năng sử dụng
kết hợp các phương thức biểu đạt là rất quan trọng đối với hành văn khi tạo lập
văn bản nghị luận.
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM VÀO BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN
1. Lựa chọn bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn
nghị luận
1.1. Vị trí và tác dụng của bài tập
"Mục tiêu của môn Ngữ văn THCS chủ yếu là hình thành và nâng cao năng
lực đọc hiểu văn bản và làm văn" cho học sinh. Để nâng cao năng lực làm văn
cần trang bị cho học sinh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản và tạo lập các
kiểu văn bản đó. Tri thức rất quan trọng nhưng không phải tất cả tri thức về các
kiểu văn bản đều trở thành kĩ năng tạo lập các kiểu văn bản ấy. Muốn có kĩ năng
thì phải làm, phải thực hành. Không phải chỉ làm một lần mà phải làm nhiều lần,
làm đi làm lại cho thành thạo. Như vậy, kĩ năng chỉ hình thành khi có quá trình
rèn luyện, luyện tập, thực hành.
Việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh nói chung và việc rèn kĩ năng đưa
yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8 nói riêng luôn đòi hỏi
phải xác định được nội dung luyện tập thực hành, đồng thời phải xác định được
cách thức luyện tập thực hành. Nội dung luyện tập thực hành chính là hệ thống
bài tập. Còn cách thức luyện tập là phương pháp tổ chức cho học sinh luyện tập
của giáo viên.
Bài tập trong dạy học môn Làm văn rất quan trọng, giữ vị trí trung tâm của quá
trình dạy học bộ môn này. Bởi vì “bản chất của làm văn là thực hành, lí thuyết làm
văn cũng là lí thuyết thực hành”. Kiến thức lí thuyết được hình thành trên cơ sở giải
quyết các bài tập tình huống. Kiến thức ấy lại được củng cố hoàn thiện bằng bài tập
luyện tập. Điều đó thể hiện ở qui trình dạy học: sau mỗi giờ học cung cấp kiến thức lí
thuyết bao giờ cũng có giờ thực hành luyện tập bằng bài tập, qua đó hình thành
những kĩ năng, năng lực tạo lập văn bản cho học sinh.
20
Bài tập trong làm văn có tác dụng làm rõ kiến thức lí thuyết, khắc sâu
những vấn đề lí thuyết đã được học cho học sinh. Đồng thời, bài tập cũng là
phương tiện để học sinh biến kiến thức thành kĩ năng, năng lực giải quyết những
vấn đề trong thực tế. Thông qua bài tập học sinh cũng được đo lường về trình độ
kiến thức, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. (Nghĩa là bài tập còn là
phương tiện để kiểm tra đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh)
Trên cơ sở vị trí và tác dụng của bài tập trong dạy học làm văn chúng tôi
nhận định rằng: Để rèn luyện tốt kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị
luận cho học sinh lớp 8, vấn đề trọng tâm là phải xây dựng được hệ thống bài
tập và phải sử dụng được hệ thống bài tập đó vào thực tiễn dạy học. Đây là loại
kĩ năng khó, phức tạp nhưng có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài văn
nghị luận xét trên quan điểm giao tiếp.
1.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập
Khi xây dựng hệ thống bài tập thực hành, rèn luyện các kĩ năng tạo lập văn
bản nói chung, rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận nói
riêng cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Hệ thống bài tập phải bám sát mục tiêu môn học
Mục tiêu là điểm xuất phát và chi phối toàn bộ các yếu tố khác trong một
qui trình dạy học. Bài tập vừa là nội dung vừa là công cụ kiểm tra đánh giá. Vì
thế xây dựng hệ thống bài tập vừa phải chú ý bám sát mục tiêu chung của giáo
dục, của môn học vừa phải chú ý bám sát mục tiêu riêng của từng bài học cụ thể.
Nguyên tắc 2: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính khoa học
Nguyên tắc này thể hiện ở tính chính xác, tính hệ thống của nội dung bài
tập. Cụ thể là mỗi bài tập đưa ra phải đúng về tri thức, phải đủ về yêu cầu và
phải nhất quán giữa các câu hỏi.
Nguyên tắc 3: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính sư phạm
Đây là nguyên tắc có tính bắt buộc, đòi hỏi hệ thống bài tập phải bám sát
nội dung chương trình và sách giáo khoa, hệ thống bài tập phải có tính kế thừa,
nâng cao phù hợp với lứa tuổi, với trình độ học sinh, hệ thống bài tập phải đa
dạng, hấp dẫn, có tác dụng gợi mở từ dễ đến khó, không áp đặt và phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Nguyên tắc 4: Hệ thống bài tập phải đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục.
Nghĩa là phải thể hiện được tinh thần tích hợp. Phải phân hoá được sinh trong
quá trình dạy học.
Những nguyên tắc nêu trên là yêu cầu và định hướng để chúng tôi xây dựng
hệ thông bài tập rèn kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm và thuyết minh
trong văn bản nghị luận.
21
2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm
vào văn nghị luận
Hệ thống bài tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận được tôi xây
dựng thành 3 nhóm chính.
Nhóm 1: Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố biểu cảm
trong văn nghị luận.
Nhóm 2: Bài tập tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm.
Nhóm 3: Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm
trong văn nghị luận.
Trong 3 nhóm bài tập nêu trên, nhóm bài tập thứ 2 được chúng tôi quan
niệm là nhóm bài tập cần được tổ chức rèn luyện nhiều và lâu dài, bởi mục tiêu
của dạy học làm văn lớp 8 là hình thành năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho
học sinh. Nhóm bài tập 1 là cơ sở để thực hiện nhóm bài tập 2 và nhóm bài tập
3 là phương tiện để củng cố hoàn thiện cho nhóm bài tập 2. Sau đây là sơ đồ
(mô hình chung) của hệ thống bài tập rèn kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm
và thuyết minh trong văn bản nghị luận:
22
Hệ thống bài tập
Đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận
Bài tập nhóm 1
Nhận biết và phân tích tác dụng
Bài tập nhóm 2
Tạo lập văn bản
Bài tập nhóm 3
Phát hiện và chữa lỗi
Đoạn văn
nghị luận
Văn bản
nghị luận
Đoạn văn
nghị luận
Văn bản
nghị luận
Lỗi không
sử dụng
Lỗi sử dụng
không hợp lí
Đoạn văn nghị
luận xã hội
Đoạn văn nghị luận
văn học
Bài văn nghị luận xã
hội
Bài văn nghị luận
văn học
23
2.1. Bài tập nhóm 1: Nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố
biểu cảm trong bài văn nghi luận
Mục đích của bài tập nhóm 1: Giúp học sinh nắm vững đặc trưng cơ bản
của văn bản nghị luận là tác động đến người đọc bằng cả lí trí và tình cảm;
Giúp học sinh xác định được các yếu tố biểu cảm sử dụng trong bài văn (đoạn
văn) nghị luận và phân tích được tác dụng của các yếu tố biểu cảm đó trong
việc nâng cao hiệu quả thuyết phục của văn bản nghị luận
Nội dung của bài tập nhóm 1 gồm 2 phần:
Phần dẫn ngữ liệu: Đây là phần quan trọng quyết định sự thành công của
bài tập nhóm 1, vì thế tôi đã lựa chọn những ngữ liệu điển hình là đoạn văn và
bài văn nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu cảm và thuyết minh.
Phần trình bày yêu cầu: Phần này gồm 3 yêu cầu chính khi luyện tập
thực hành: Thứ nhất là yêu cầu xác định nội dung nghị luận; Thứ 2 là yêu cầu
xác định các yếu tố biểu cảm đựơc đưa vào bài nghị luận; Thứ 3 là yêu cầu
phân tích được tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó.
Ngoài ra tôi đề xuất thêm phần hướng dẫn làm bài tập: Đây là phần nêu
những gợi ý cho học sinh khi làm bài tập.
Các dạng bài tập cụ thể của nhóm 1: Để tích hợp với các bài học về nghị
luận xã hội và nghị luận văn học trong chương trình làm văn 8, tôi chia bài
tập nhóm 1 thành 2 dạng cụ thể: (1) Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng
của yếu tố biểu cảm trong đoạn văn nghị luận; (2) Bài tập nhận biết và phân
tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận.
2.1.1. Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong
đoạn văn nghị luận
Bài tập 1:
Ngữ liệu:
"Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe một câu chuyện rất xúc động. Chuyện
kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời
em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi tay ram ráp
nhăn nheo nhưng hiền dịu và ấm áp. Cậu kết luận răng: bà ngoại là người
phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề,
phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi đó
chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có
thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?"
Yêu cầu: Hãy đọc đoạn văn và cho biết cảm xúc của em? Cảm xúc đó
được khơi gợi từ những yếu tố nào trong đoạn văn? Hãy chỉ ra yếu tố đó và
24
phân tích tác dụng biểu đạt của chúng? Theo em, đoạn văn đó thuộc kiểu văn
bản gì, vì sao?
Hướng dẫn làm bài tập:
Trình bày cảm xúc của mình khi đọc đoạn văn: Cảm xúc ấy là cảm giác
xúc động dưng dưng nước mắt... khi đọc đoạn văn.
Xác định yếu tố biểu cảm: Cảm xúc được gợi lên từ câu chuyện xúc
động về cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ. Đó là hình ảnh cậu bé nghèo với tình
yêu thương vô hạn dành cho mẹ (là người bà ngoại của em) mà tác giả đã kể
ra bằng tất cả tình cảm yêu thương, trân trọng, ngưỡng mộ chân thành nhất.
Cảm xúc ấy còn gợi lên từ ý kiến nhận định của tác giả về bài văn lạc đề, phải
về nhà viết lại: Đó mới chính là tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình
yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào,
tình cảm nào thiêng liêng hơn thế? Câu hỏi tu từ khép lại đoạn văn, chứa chất
biết bao tình cảm dâng lên nghẹn ngào! Như vậy, biểu cảm đâu phải là bằng
những từ ngữ câu văn mĩ miều mà biểu cảm phải bằng chính cảm xúc chân
thành của người viết, bằng sự diễn đạt giản dị và chân thật nhất.
Mặc dù đoạn văn chứa đầy tình cảm, nhưng nó vẫn không phải là đoạn
văn bản biểu cảm. Mà nó là một đoạn văn nghị luận. Vì mục đích của đoạn
văn không phải là bộ lộ cảm xúc. Mục đích của đoạn văn là trình bày ý kiến
quan điểm về bản chất của thành công. Với tác giả, thành công của cậu học
sinh nghèo ấy, không phải là bài văn viết đúng, được điểm cao, mà là bài văn
chứa đầy tình yêu thương, cất lên từ đáy lòng. Bản chất của thành công là như
vậy, là nói lên được lòng mình một cách chân thành!
Bài tập 2:
Ngữ liệu:
"Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô
Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. {...} Quái thay là
Ngô Tất Tố. Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người
khác thích chó, yêu chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương
cunggx không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te
cho chó ăn cơm, vợ hắn và hắn bù khú {...} với nhau trên câu chuyện chó con.
ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy.
Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới
càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra."
Yêu cầu: Hãy đọc đoạn văn và cho biết thái độ của người viết đối với tác
giả và nhân vật của "Tắt đèn"? Thái độ đó thể hiện ở những yếu tố biểu cảm
nào? Theo em, đoạn văn thuộc kiểu văn bản gì? Vì sao?
25
Hướng dẫn làm bài tập
Thái độ của tác giả đối với nhân vật của "Tắt đèn" (vợ chồng Nghị Quế)
là: khinh bỉ và căm ghét. Thái độ đó thể hiện ở cách lập luận: lúc đầu người
đọc cứ tưởng vợ chồng Nghị Quế "cũng chỉ như mọi người" ... về sau, tác giả
đột ngột bóc trần bản chất chó đểu của chúng ra, khi chúng "giở giọng chó má
với mẹ con chị Dậu".
Thái độ của tác giả đối với nhà văn của "Tắt đèn" (Ngô Tất Tố) là: khâm
phục tài năng kể chuyện của Ngô Tất Tố. Thái độ đó bộc lộ bằng những lời
nhận định ngợi ca: "Quái thay là Ngô Tất Tố; Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ!"
Đoạn văn trên thuộc văn bản nghị luận, có nội dung bàn luận về nhân vật
và tài năng kể chuyện của nhà văn Ngô Tất Tố trong tác phẩm "Tắt đèn". Sở
dĩ ta biết được điều đó là vì tác giả đã sử dụng thao tác lập luận tương phản
khi phân tích hành vi lúc đầu và lúc cuối của vợ chồng Nghị Quế, từ đó vạch
trần bản chất chó đểu của chúng.
2.1.2. Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong
bài văn nghị luận
Bài tập 1:
Ngữ liệu: HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH TRÊN ĐƯỜNG... CHÚNG
TA ĐI
"Xin mời các quí vị và các bạn theo dõi chuyên mục An toàn giao
thông", tiếng phát thanh viên của Đài Truyền hình Việt Nam vang lên quen
thuộc. Không biết bao lần tôi đã nghe chuyên mục này trong bản tin Thời sự
trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là chương trình Chào buổi sáng
của Đài Truyền hình Việt Nam. Và dừng như lần nào cũng cập nhật một loạt
thông tin chẳng mấy vui vẻ như: vi phạm luật giao thông, tai nạn nghiêm
trọng, số người thiệt mạng, tổng số thiệt hại...
An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi người. Đó không chỉ là khẩu
hiệu mang tính kêu gọi, hô hào mà chính là cuộc sống đích thực của con
người. Vì sao hằng ngày chúng ta nghe đến thuộc lòng, nhìn đến quen mắt
câu nói đó mà thực trạng giao thông đô thị vẫn không mấy tiến bộ? Chỉ cần
mỗi ngày hai lần đi - về cùng dòng người và xe cộ qua các nút giao thông, khi
không có "bóng chú áo vàng"ở đó, là chắc chắn bạn sẽ chứng kiến vô số hành
vi bất chấp luật lệ: đèn vàng, người ta vượt, rồi đến đèn đỏ, người ta vẫn cố
vượt; người ta tranh thủ tạt ngang, rẽ ngược, cứ ngang nhiên xe máy trên
đường một chiều (để "tiết kiệm" xăng xe hay thời gian?); lại có người đang
bon bon thẳng hướng, bỗng sực nhớ rẽ phải, thế là đột ngột ngoặt sang bên
cạnh chẳng cần xi nhan, cũng chẳng cần biết người đi phía sau sẽ không kịp
26
phản xạ... Vẫn còn đó nỗi đau không thể nguôi quên, mất mát không thể bù
đắp của những gia đình có người thân tử nạn vì sự thiếu ý thức an toàn giao
thông. Điều đáng buồn là ở chỗ, không chỉ những người đi xe máy, xe đạp
thiếu ý thức an toàn mà ngay cả những lái xe chuyên nghiệp, những tài xế tắc
xi, xe tải, xe buýt cũng có người thiếu ý thức nghề nghiệp, coi nhẹ nhân
mạng. Có một thời báo chí, đài phát thanh, truyền hình liên tiếp đưa thông tin
về những vụ tai nạn chết người do xe buýt phóng nhanh vượt ẩu "cướp
đường" gây ra. Những cái chết không đáng chết! Những sự mất mát phi lí!
Đến bao giờ chúng ta mới thoát khỏi nỗi đau do sự thiếu ý thức an toàn giao
thông của chính chúng ta gây ra?
Mấy năm gần đây, vấn đề an toàn giao thông đã và đang trở thành "điểm
nóng" như một "quốc nạn"ở nước ta. Nhiều bộ, ngành, tổ chức, cá nhân cùng
kết hợp tuyên truyền, giải thích vận động trên tất cả các phương tiện thông tin
đại chúng về an toàn giao thông. Bộ Giao thông vân tải, Bộ Công an, Bộ Văn
hoá - Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo... tất cả cùng "vào cuộc" tuyên
truyền cổ động cho giao thông an toàn. Chính phủ thành lập riêng một uỷ ban
an toàn giao thông quốc gia. Vô số những bài báo, phóng sự, bài luận dự thi,
pa nô, áp phích, những cuộc triển lãm, những hoạt động quảng cáo đa dạng
diễn ra mọi lúc mọi nơi nhằm nâng cao ý thức an toàn giao thông cho người
dân. Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Trái Đất, các diễn viên điện ảnh, ca sĩ, nhạc
sĩ... đều hăng hái tham gia tuyên truyền an toàn giao thông Việt Nam. Vì sao
hoạt động cổ vũ giao thông an toàn lại rầm rộ như vậy? Câu trả lời thiết nghĩ
thật đơn giản, bởi các hành vi vi phạm an toàn giao thông dường như không
có chiều hướng ngừng tái diễn và hậu quả của chúng vẫn hằng ngày dóng lên
những tiếng chuông cảnh báo ghê rợn. Theo thống kê, năm 2002, cả nước có
13000 nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông. Thống kê mới nhất của Ngân
hàng Thế giới - theo báo điện tử Vietnamnet ngày 18 tháng tư năm 2007 -
hằng năm Việt Nam thiệt hại khoảng 850 triệu đô la do tai nạn giao thông, tổn
thất kinh tế đó chiếm 0,5% tổng sản lượng quốc gia. Điều đáng suy nghĩ là
thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 25 chiếm 20% dân số Việt Nam nhưng lại
chiếm 40% số vụ "tai nạn giao thông đặc biệt ngiêm trọng". Đành rằng còn
nhiều vấn đề không an toàn do cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ gây ra, chẳng hạn:
đường xá chật hẹp; việc cải tạo thường xuyên dở dang đã tạo nên nhiều "cái
bẫy" nguy hiểm: nắp cống trồi lên giữa lòng đường, "ổ gà, ổ voi" mọc giữa
phố, hố ga thiếu nắp, đường phố thiếu đèn điện... biển báo giao thông bị cành
cây, biển quảng cáo che lấp, vỉa hè bị lấn chiếm, hệ thống đường đi bộ qua
các nút giao thông rất thiếu... Nhưng "tiên trách kỉ, hậu trách nhân", nguyên
27
nhân đầu tiên bao giờ cũng chính vẫn ở sự thiếu ý thức chấp hành luật của
mỗi chúng ta. Từ tai nạn đường sắt, đường thuỷ cho đến tai nạn đuờng bộ,
theo thống kê cho thấy, nguyên nhân chính vẫn ở ý thức con người. Có những
đoạn đường sắt "nguy hiểm chết người" bởi bị tháo trộm ốc vít hoặc hành
khách vô tội bị ném gạch đá không thương tiếc... thật đáng buồn do mưu sinh,
một số kẻ đang tâm kiếm sống bằng "nghề rải đinh" dọc quốc lộ, tỉnh lộ, thậm
trí đường cao tốc . Tại Hội nghị về giao thông các nước khu vực Đông Á tổ
chức năm 2005, trong báo cáo của trường Đại học Giao thông vận tải, ba
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tai nạn giao thông đường bộ - loại tai nạn giao
thông chủ yếu ở nước ta đó là: chạy quá tốc độ chiếm 34%, vượt tuyến ẩu, bất
cẩn chiếm 22% và lái xe say xỉn chiếm 11%. Địa điểm diễn ra tai nạn, trên
quốc lộ chiếm 50%, trong thành phố chiếm 31%, ở các tỉnh chiếm 12%.
Trong đó đáng chú ý là 70% số vụ tai nạn liên quan đến xe gắn máy 2 bánh,
30 % còn lại do ô tô 4 bánh gây nên, nam giới là "thủ phạm" của 81% số vụ
tai nạn. Tình trạng một số thanh niên phóng nhanh, vượt ẩu, xe máy kẹp 3-4
lạng lách, đánh võng, rú ga bóp còi inh ỏi, thậm chí tổ chức đua xe trái phép
với những "pha biểu diễn" nguy hiểm như: bỏ tay lái, bốc đầu xe, quẹt chân
chống...vẫn tái diễn trong thành phố.
Ai đó đôi khi diễu cợt các "anh hùng núp" không đứng ngay giữa ngã tư
hoặc ngay đầu các lối cấm rẽ mà đứng ở phía xa khuất rồi bất chợt xuất hiện
phạt vi cảnh những người phạm luật. Riêng tôi lại rất tán đồng với "biện pháp
phục kích" vất vả của các chiến sĩ cảnh sát giao thông. Đó là một trong những
chiến Tài liệu đính kèm: