I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình Ngữ văn THCS thơ trữ tình Trung đại chiếm một vị trí
khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn 7 kì I, bao gồm bộ phận thơ trữ tình
trung đại Việt Nam và khá nhiều bài thơ trữ tình đời Đường của Trung Quốc.
Xét về mặt nội dung và nghệ thuật, các bài thơ trữ tình trung đại này có
nhiều điểm tương đồng. Các tác phẩm đều phản ánh một cách toàn diện xã hội
đương thời, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người một
cách sâu sắc. Nội dung phong phú được thể hiện bằng hình thức thơ hoàn mỹ. Đặc
biệt là các bài thơ Đường, đó là sự kế thừa và phát triển cao độ của thơ ca cổ điển
Trung Quốc mà những phương diện của thi pháp thơ cổ điển của Trung Quốc vốn
rất tiêu biểu. Các tác phẩm thi ca Việt Nam thời kì này cũng chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi nghệ thuật của thơ Đường, thi pháp thơ rất đa dạng, phong phú, phức tạp và
sâu sắc: ngôn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước
lệ, cổ kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Hiểu được
các bài thơ này một cách thấu đáo đã là khó, việc giảng dạy như thế nào để học
sinh cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều. Thiết nghĩ, đó là vấn đề mà rất
nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở
ua bảng hệ thống sau: STT Tác phẩm Tác giả Thể loại Quốc gia 1 Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) Khuyết danh Thất ngôn tứ tuyệt Việt Nam 2 Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) Trần Quang Khải Ngũ ngôn tứ tuyệt Việt Nam 3 Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên trường vãn vọng) Trần Nhân Tông Thất ngôn tứ tuyệt Việt Nam 4 Bài ca Côn Sơn (Côn sơn ca- trích) Nguyễn Trãi Lục bát Việt Nam 5 Sau phút chia li (Trích Chinh phụ ngâm khúc) Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch) Song thất lục bát Việt Nam 6 Bánh trôi nước Hồ Xuân Hương Tứ tuyệt Việt Nam 7 Qua đèo Ngang Bà huyện Thanh Quan Thất ngôn bát cú đường luật Việt Nam 8 Bạn đến chơi nhà Nguyễn Khuyến Thất ngôn bát cú Đường luật Việt Nam 9 Xa ngắm thác núi Lư (Vọng lư sơn bộc bố) Lí Bạch Thất ngôn tứ tuyệt. Trung Quốc 10 Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh. ( Tĩnh dạ tứ) Lí Bạch Ngũ ngôn tứ tuyệt. Trung Quốc 11 Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. (Hồi hương ngẫu thư) Hạ Tri Chương Thất ngôn tứ tuyệt Trung Quốc 12 Bài ca nhà tranh bị gió thu phá. Đỗ Phủ Cổ phong Trung Quốc Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 7 (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) Như vậy, phần chương trình thơ trung đại lớp 7 bao gồm cả phần thơ Việt Nam và thơ Trung Quốc. Tuy nhiên, giữa chúng có điểm chung bởi các bài thơ Việt Nam thời kì này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Phong cách thơ Đường của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong qúa trình dạy, cần bám sát đặc trưng thể loại, các tín hiệu nghệ thuật (chủ yếu là các thể thơ cổ điển, nghệ thuật đối, ước lệ, cách sử dụng từ ngữ) để trên cơ sở đó, dẫn dắt học sinh đi tìm cái hay, cái đẹp trong tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. II.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả học sinh giỏi các cấp trước hết chúng ta cần nhìn thẳng vào hiệu quả về việc dạy và học văn ở trường mình, bộ môn mình đảm nhiệm để từ đó nhìn nhận được thực chất vấn đề sao cho có hiệu quả. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy tôi đã nhận thấy những mặt thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi- khó khăn: Phần nội dung chương trình Ngữ văn 7 kì I có nhiều bài thơ trung đại rất tiêu biểu, đặc sắc. Trước đây, một số bài thơ này được học trong chương trình 9 nhưng theo quan điểm đổi mới, các tác phẩm này đã được đưa xuống chương trình văn 7. Vì vậy để học sinh nắm được cái thần của bài thơ, hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ quả là rất khó. *Về phía học sinh: Nhiều học sinh tỏ ra ngại học phần thơ trữ tình trung đại, không hứng thú, nhất là các bài thơ có bản phiên âm chữ Hán... Nhiều học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ, lãnh đạm với tác phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các bài thơ đã học trong sách giáo khoa và sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ có Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 8 phiên âm chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều mệt nhọc, mà cách giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo chất lượng học văn ngày càng sa sút * Về phía giáo viên: Với những văn bản thơ chữ Hán, một số giáo viên khi phân tích chủ yếu hướng dẫn các em phần nhiều bám vào bản dịch thơ mà sao nhãng hoặc quên lãng bản phiên âm (bản gốc), học sinh không thể nhớ nổi một từ hay một câu thơ hay trong bản gốc. Tiếp cận với những bài thơ mĩ lệ, mang tính mẫu mực, một số giáo viên tham phần bình, bình quá nhiều khiến thiếu thời gian để học sinh phát huy năng lực sáng tạo của mình trong quá trình cảm nhận. Một số giáo viên lại lại chỉ chú ý đến hệ thống câu hỏi mà chưa chú ý đến phần bình, giờ dạy khô khan, điều đó khiến cho năng lực cảm thụ cái hay cái đẹp của tác phẩm với học sinh chưa hoàn toàn đúng mức. * Các nhân tố khác: Bên cạnh đó, thế kỉ 21 Hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát triển, những môn học thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ) quan trọng hơn bao giờ hết thì văn chương không có tính năng ứng dụng, tương lai người học không được đảm bảo, học sinh ngày càng xa rời văn chương. Đặc biệt, một thực tại mà giáo viên nào cũng nhận thấy: Sách tham khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến thức, những bài văn mẫu quá nhiều, vô hình dung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương được học dựa vào bài soạn ở nhà nhưng chưa một lần đọc bài văn, bài thơ trong sách giáo khoa, thầy có kiểm tra phát vấn thì các loại sách tham khảo nghĩ hộ, nói hộ tất cả và khi giáo viên ra đề kiểm tra coi nghiêm túc thì tất thảy đã phơi bày ra, học sinh không thích, không có hứng thú học văn. b. Thành công – hạn chế: * Thành công. Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 9 Từ năm 2001 đến nay đã gần hai mươi năm công tác và được phân công nhiều năm dạy môn Ngữ Văn 7 bản thân tôi đã tích lũy kiến thức, phương pháp cũng như kinh nghiệm trong việc dạy thơ Đường . * Hạn chế. Các tác phẩm thơ trữ tình trung đại bao gồm bộ phận thơ trữ tình Trung đại Việt Nam được sáng tác từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX và các tác phẩm trơ trữ tình trung đại thời Đường của Trung Quốc, được sáng tác từ thế kỷ VII đến thế kỷ X. Đó là những tác phẩm đạt đến độ hoàn thiện, mẫu mực về mặt nội dung cũng như hình thức. Xét về mặt thời gian, những bài thơ ấy đã cách thế hệ chúng ta một khoảng thời gian dài, do vậy, để cảm nhận được sâu sắc về tác phẩm, cả giáo viên và học sinh đã gặp không ít khó khăn. Học sinh không yêu thích các tác phẩm văn thơ xưa, lười đọc tác phẩm, soạn lấy lệ, chống đối. Kĩ năng hướng dẫn học sinh khai thác tác phẩm của giáo viên còn hạn chế. c. Mặt mạnh và mặt yếu. * Mặt mạnh. Là giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn bản thân luôn sống gần gũi với học sinh và luôn lắng nghe ý kiến của các em. Là giáo viên trực tiếp đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên cứu giảng dạy, tôi đã giành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu về chuyên môn tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy thơ Đường. Luôn chịu khó tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tham khảo tài liệu, sưu tầm , ghi chép cập nhật thường xuyên. Luôn trao đổi kinh nghiệm trong tổ, ngoài trường để học hỏi và đúc rút được những kinh nghiệm cần thiết. * Mặt yếu. Đối tượng học sinh giỏi ở đây là các lớp đại trà cảm thụ văn học còn non nớt, vì thế người thầy cần phải có phương pháp để các em vừa tích lũy được kiến thức, vừa yêu bộ môn và có trách nhiệm hơn. Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 10 Chương trình Ngữ văn THCS tương đối rộng đòi hỏi các em phải hệ thống, xâu chuỗi được kiến thức trong quá trình học. d. Nguyên nhân yếu tố tác động. Có nhiều nguyên nhân, yếu tố tác động dẫn đến sự thành công song tôi đưa ra một số nguyên nhân chính. Người thầy phải có kiến thức sâu, rộng, phải tâm huyết nhiệt tình với công tác này. Thường xuyên học tập nâng cao chuyên môn, tham khảo tài liệu. Định hướng cho các em thực hành từ khái quát đến cụ thể. Thường xuyên chấm và sửa bài cho các em. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng. Như đã trình bày, Trường THCS Lương Thế Vinh nằm trên địa bàn Thị trấn Quảng Phú , đa số các em hiếu học. Được sự quan tâm của Ban giám hiệu và chính quyền địa phương, đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm về tay nghề, thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm. Tuy nhiên khi nhìn vào thực trạng để các em lớp 7 nắm được kiến thức thơ trữ tình Trung đại là cả một vấn đề, kết quả khảo sát những năm qua chưa cao. Đây là một điều trăn trở của người thầy khi được nhận trọng trách dạy các em. Chính vì thế đòi hỏi người giáo viên cần phải tâm huyết, tìm tòi, sáng tạo. Còn học sinh chăm chỉ, tự giác. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy thơ trữ tình Trung đại , tôi đã đưa ra một số phương pháp để thực hiện. II.3. Giải pháp, biện pháp. a. Mục tiêu của giải pháp , biện pháp: Mục tiêu của tôi đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần thơ Trung đại ở chương trình Ngữ văn 7. b. Nội dung và cách thức thực hiện: Về phía giáo viên: tìm hiểu bài kĩ lưỡng nhuần nhuyễn đến mức thuộc thơ, sống với bài thơ, tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để hiểu được thấu đáo nội dung tư tưởng của tác phẩm. Hướng dẫn học sinh soạn kĩ ở nhà, kiểm tra Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 11 kĩ bài soạn của học sinh, có biện pháp nhắc nhở, phê bình hay báo với giáo viên chủ nhiệm nếu học sinh có biểu hiện soạn chống đối như soạn sơ sài, soạn nhưng chỉ là chép lại mà không hiểu, không nhớ. Về phía học sinh: cần chuẩn bị bài soạn chu đáo trên cơ sở hướng dẫn của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và sự hướng dẫn của giáo viên. Với học sinh học tốt, cần đọc thêm tư liệu để bước đầu hiểu được tác phẩm, sưu tầm các câu thơ, bài thơ có nét tương đồng với tác phẩm sắp học hay các nhận định về tác phẩm. * Đối với hoạt động dạy học trên lớp: Bước 1: giáo viên nên hết sức coi trọng khâu kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, bởi đây chính là tiền đề quan trọng để học sinh cảm thụ được tác phẩm ngay trên lớp. Bước 2: giáo viên cần chú ý khâu vào bài để tạo không khí phù hợp với bài học. Có thể là một bài hát, một bản nhạc, một bức tranh... mang nội dung tư tưởng tương đồng với tác phẩm chuẩn bị học. Ví dụ: khi học bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch, giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát “Quê hương” của Đỗ Trung Quân. Âm điệu ngọt ngào cùng lời bài hát đằm thắm, thiết tha khiến học sinh cảm nhận dễ dàng hơn, như vậy, cách tiếp cận với bài thơ trở nên dễ dàng hơn. Bước 3: với phần tìm hiểu chung văn bản: Đọc thơ: Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học sinh cũng chính là bước đầu tiếp cận hình tượng thơ. Cần đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa (nếu có), dịch thơ Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi động của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân vật, cái mà đọc bằng mắt nhiều khi không đạt được. Đọc chính là tạo lên rung động thơ, tạo lên sự đồng điệu về tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả. Bước 4: phần phân tích: Thơ trữ tình Trung đại thường mượn cảnh tả tình, nên nội dung của bài thường là bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng (nội dung chính). Vì vậy các văn bản thường đạt giá trị cao về nghệ thuật ngôn từ. Bởi vậy, khi phân tích, giáo viên Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 12 cần cho học sinh phát hiện và phân tích về giá trị nghệ thuật của bài để hiểu được nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm kín đáo, giáo viên cần chú ý khai thác: - Bố cục của bài (theo đặc trưng thể loại hoặc diễn biến tình cảm, tâm trạng nhân vật). Giáo viên cần căn cứ vào đó để có cách tìm hiểu linh hoạt: Ví dụ, khi dạy bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, đây là một bài thơ tuân theo các quy định nghiêm ngặt của phong cách thơ Đường, vì vậy, giáo viên nên hướng dẫn học sinh khai thác theo bố cục của bài thất ngôn bát cú, gồm 4 phần đề - thực – luận – kết, ở mỗi phần luôn có sự song hành bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh khai thác tìm hiểu. - Nhịp thơ, vần thơ, thanh điệu, âm hưởng: giáo viên cần chú ý hướng dẫn HS khai thác các yếu tố này, bởi chúng góp phần thể hiện cảm xúc của chủ thể hay nhân vật trữ tình. Với bài “Thiên trường vãn vọng”, học sinh cần phát hiện cách gieo vần ở bản phiên âm (vần “iên”) để thấy được âm hưởng của bài: êm đềm, yên ả. - Ngôn từ, chi tiết, hình ảnh thơ: khi khai thác bài, giáo viên cần chú ý đến hệ thống từ ngữ được sử dụng, đó là các tính từ, các từ láy gợi hình gợi cảm, các động từ, các hình ảnh thơ... để thể hiện sâu sắc, rõ nét bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình. Trong bài “Qua Đèo Ngang, đó là hệ thống các từ láy mang giá trị gợi hình gợi cảm: “lom khom”, gợi lên hình ảnh những tiều phu bóng dáng nhỏ bé, nhạt nhòa như muốn chìm lắng vào trong không gian núi rừng hui hắt, vắng lặng; “lác đác” gợi lên sự thưa thớt, vắng vẻ của những ngôi nhà chợ ven sông...Tất cả đều nhằm làm nổi bật lên bức tranh thiên nhiên đèo Ngang heo hút lúc chiều tà, ẩn trong đó là tâm trạng buồn bã cô đơn của người “lữ khách” Trong bài “Tụng giá hoàn kinh sư”, học sinh cần thấy được dụng ý của việc dùng các động từ mạnh đứng đầu, “đoạt”, “cầm”, đó là thế chủ động tiến công mạnh mẽ, là chiến thắng oanh liệt, vẻ vang của quân dân nhà Trần, là đòn thua thảm hại của giặc. Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 13 Đặc biệt, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh khai thác triệt để những từ được coi là “nhãn tự” của bài thơ. - Phép tu từ: điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, đặc biệt phép đối. Nên hướng dẫn HS phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật cơ bản và từ đó cảm nhận được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó đem lại. Ví dụ, câu thơ “Hương âm vô cải mấn mao tồi” (trong bài “Hồi hương ngẫu thư”), ta thấy có phép tiểu đối: giọng quê không đổi >< mái tóc đã thay đổi. Phép đối càng làm nổi bật tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình: cho dù thời gian có làm cho mái tóc thay đổi nhưng tình cảm với quê hương không hề đổi thay, trước sau như một, vẫn nguyên vẹn, thắm thiết, bền chặt. Phân tích tác phẩm phải gắn liền với thân thế, phong cách tác giả và hoàn cảnh xã hội nảy sinh tác phẩm, điều đó sẽ giúp học sinh hiểu tác phẩm một cách đúng đắn, sâu sắc hơn. Chẳng hạn, phong cách thơ Lý Bạch là phong cách của một thi tiên. Ông là người thông minh, biết làm thơ từ thuở nhỏ, giao du rộng rãi. Từ trẻ ông đã xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông, ảnh hưởng đến các tác phẩm của ông. Vì vậy , dạy thơ ông, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh cảm nhận theo hướng trên ,chẳng hạn trong 2 câu thơ : Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửư thiên ( Vọng Lư Sơn bộc bố ) Dịch thơ : Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây. Lý Bạch đã xây dựng một hình tượng thiên nhiên kì vĩ và diệu xảo nhờ trí tưởng tượng mạnh mẽ, kì lạ, đạt đến mức điêu luyện. Chính sự lãng mạn, phóng túng ấy đã tạo nên nét riêng trong thơ Lý Bạch. Dạy thơ nói chung đã khó, dạy thơ tiếng nước ngoài qua bản dịch ( đặc biệt là thơ chữ Hán ) lại càng khó hơn. Bởi lẽ một thực tế , giữa nguyên tác và bản dịch vẫn có độ chênh: Hao hụt hoặc sai lệch ít nhiều Vì lẽ đó, khi dạy những tác Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 14 phẩm loại này, giáo viên thường gặp rất nhiều lúng túng. Cho học sinh cảm nhận theo hướng nào ? Phân tích bài thơ ra sao ? Bắt đầu khai thác từ đâu ? ... Kết quả là không ít giáo viên khi dạy mảng văn thơ dịch mới chỉ đưa học sinh vào những hướng cảm thụ một cách sơ sài, đôi khi còn chưa sát ý. Việc đối chiếu phần dịch nghĩa và dịch thơ với nguyên âm trong quá trình giảng văn là một thao tác hết sức cần thiết để giải mã tác phẩm một cách có hiệu quả. Để tiến hành, trong quá trình dạy giáo viên cần định hướng cho học sinh vào với không khí của sự so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, dạy bài "Vọng Lư Sơn bộc bố" ( Xa ngắm thác núi Lư ) của Lí Bạch, giáo viên cần đưa ra cho học sinh các câu hỏi dạng như: - Ở mỗi câu trong phần dịch thơ có gì khác với bản phiên âm? - Từ nào, ý nào đã bị mất trong bản phiên âm đã bị mất khi chuyển sang bản dịch thơ ? Câu 1 - Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên - Dịch nghĩa: Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khóii tía - Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Chủ thể của hai động từ "chiếu" và "sinh" là mặt trời . Do đó, quan hệ giữa 2 vế câu là quan hệ nhân - quả. Nghĩa là mặt trời chiếu ánh nắng vào hơi nước trên đỉnh Hương Lô làm cho hơi nước biến thành màu tía. Tác giả đem đến cho nó một vẻ đẹp mới: vẻ đẹp dưới ánh nắng mặt trời. Câu thơ vẽ lên một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ, vừa rực rỡ ,vừa huyền ảo. Trong bản dịch thơ bỏ mất từ "sinh" làm cho quan hệ nhân- quả này bị phá vỡ, chủ thể là khói tía. Cho nên cảnh tượng kì vĩ trên cũng bị giảm đi phần nhiều. Từ những dẫn chứng cụ thể trên , chúng ta rất dễ dàng nhận thấy là giữa bản phiên âm và bản dịch thơ đôi khi còn có sự chênh lệch khá xa. Nếu chỉ chú trọng đến việc phân tích bản dịch thơ mà quên đi nguyên tác e rằng học sinh chỉ hiểu được cái hay trong văn bản thơ của dịch giả mà không hiểu hết những nét riêng, những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới độc giả qua sáng tạo nghệ thuật của mình. Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 15 - Chú ý đến cảnh và tình được thể hiện trong tác phẩm: các thi nhân xưa thường tức cảnh sinh tình, nhìn cảnh mà nghĩ đến mình, cảnh là cái cớ để bộc lộ tình cảm trong lòng, tâm cảnh chi phối cái nhìn ngoại cảnh. Cảnh và tình có liên hệ mật thiết với nhau, vì vậy, khi khai thác, giáo viên cần bám chắc vào đặc trưng này. Dạy bài “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, cần chú ý hai bức tranh ngoại cảnh và tâm cảnh song song: ẩn bên trong bức tranh một Đèo Ngang hoang sơ, hiu hắt, vắng lặng khi chiều tà là nỗi lòng nhớ nước thương nhà của một con người cô đơn, nặng lòng hoài cổ. + Cuối cùng một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương pháp dạy học trong giờ học thơ trữ tình là giảng bình. Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ là rất cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm xúc của học sinh khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là những giáo viên có những lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn tượng mãi. Cũng có khi bình về tư tưởng, nội dung của bài thơ để thấy được cái hay của tác phẩm đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Có nhiều cách bình, có thể trực tiếp bình về cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm, có thể so sánh điểm tương đồng với các tác phẩm khác để thấy được nét đọc đáo riêng của tác phẩm...Tuy nhiên dù cách nào cũng vậy lời bình phải phù hợp với lời giảng trước hoặc sau đó, giảng có sâu sắc thì lời bình mới tâm đắc. Nếu giảng hời hợt, chưa tới, dù có bình tâm huyết đến mấy cũng sẽ thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào những lời bình rộng như thế. Thêm nữa, lời bình thể hiện rõ nhất ở giọng điệu, cảm xúc, thái độ. Cho nên nó mang dấu ấn cá nhân người viết rất đậm. Và qua lời bình ấy, học sinh mới cảm nhận được cái hay của tác phẩm, nâng cao hiệu quả của giờ học văn. * Khi hướng dẫn học sinh phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí để khai thác nghệ thuật và nội dung của bài: - Các câu hỏi đàm thoại ngoài tính chất xác định rõ ràng, phải có màu sắc văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc cho học sinh. Đề tài “Một số kinh nghiệm dạy học thơ trữ tình trung đại Ngữ văn 7” Nguyễn Ngọc Khải Trường THCS Lương Thế Vinh 16 - Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ h
Tài liệu đính kèm: