Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9B Trường THCS Cẩm Tân

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9B Trường THCS Cẩm Tân

Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là “nhà trường”, từ đúng nghĩa của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội.

doc 22 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 7462Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9B Trường THCS Cẩm Tân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao, kỹ năng vận dụng chuẩn mực đạo đức còn thấp, chưa phân định được ranh giới giữa cái xấu và cái tốt.
Khả năng tự chủ chưa cao, khi vi phạm đạo đức sửa chữa chậm hoặc không chịu sửa chữa.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề : 
2.3.1. Những phẩm chất cần có đối với một giáo viên chủ nhiệm:
Phải có lòng nhiệt tình say mê với nghề nghiệp, có ý thức vươn lên nhất là tự học, tự bồi dưỡng, có sự học hỏi tích luỹ của các đồng nghiệp phải có trình độ và năng lực.
Nắm được cụ thể và chi tiết các kế hoạch giáo dục hướng nghiệp của nhà trường để thực hiện trong lớp. Thấy được vai trò và nhiệm vụ của người thầy giáo, cô giáo là giáo dục học sinh trở thành một người có tài, có đức cho xã hội.
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Gần gũi, thương yêu, động viên các em cố gắng vươn lên trong mọi hoạt động. Tạo cho các em một sân chơi trí tuệ, gây cho các em một niềm tin tưởng tuyệt đối. Thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài ở nhà của từng học sinh, ý thức hành vi đạo đức của học sinh để kịp thời kết hợp với gia đình, nhà trường giáo dục học sinh một cách toàn diện
Tạo không khí đoàn kết trong lớp, đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng lễ phép với thầy cô giáo và mọi thành viên trong nhà trường.
Chỉ đạo trong việc kết hợp các lực lượng giáo dục: kết hợp tất cả các thầy cô giáo bộ môn, các em cán bộ lớp để hiểu và nắm rõ sự tiến bộ của các em trong từng ngày, từng tuần, từng tháng.
Kết hợp với các giáo viên bộ môn, nhà trường để thông báo các kết quả học tập của từng em đến gia đình, kể cả những em có ý thức vươn lên trong mọi mặt, thông báo kịp thời, đúng lúc, không gay gắt nâng cao vấn đề.
Kết hợp với gia đình phụ huynh, tìm ra các giải pháp tốt nhất để giáo dục học sinh ngày một tốt hơn.
Nhận định đánh giá chính xác từng học sinh trong lớp có nhiều đối tượng học sinh. Em thì học giỏi nhưng ý thức kỷ luật chưa được, em thì học yếu song lại chăm chỉ ngoan ngoãn...vì thế việc đánh giá xếp loại phải chính xác đến từng em một, có như vậy các em thấy được những điều cần sửa chữa, những điều cần phải vươn lên. Mặt khác tinh thần động viên của giáo viên hết sức quan trọng chỉ nhắc nhở các em ở một khía cạnh nào đó, trong học tập cũng như hành đạo đức để các em ngày một có ý thức vươn lên trong các kỳ tới.
2.3.2. Những yêu cầu đối với học sinh :
Kính trọng thầy giáo, cô giáo, nhân viên trong nhà trường, tôn trọng lễ phép với người lớn tuổi, vui vẻ hoà nhã với các em nhỏ tuổi hơn mình, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường, thực hiện điều lệ, nội quy nhà trường, chấp hành tốt các quy tắc trật tự an toàn xã hội.
Xác định mục tiêu học tập, chuyên cần, ham học, trung thực trong học tập và đạt kết quả ngày càng tiến bộ. Luôn luôn khiêm tốn và sẵn sàng giúp bạn cùng học tập, tiến bộ, mạnh dạn đấu tranh chống lười biếng ỷ lại, thiếu trung thực trong học tập.
Hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện theo yêu cầu của thầy cô giáo, của nhà trường. Tham gia các hoạt động tập thể của nhà trường, của lớp, của đội thiếu niên TP Hồ Chí Minh. Gìn giữ bảo vệ tài sản của nhà trường.
Cố gắng rèn luyện nếp sống văn minh lành mạnh, có văn hoá, có kỷ luật, trung thực, đúng mức trong các quan hệ giao tiếp với bạn bè, các thầy giáo, cô giáo, với gia đình và những người xung quanh.
Có ý thức thực hiện tốt pháp luật và cả các chính sách có liên quan đến bản thân, có thái độ rõ ràng ủng hộ cái đúng, cái tốt, không đồng tình với những biểu hiện sai trái trong trường và ngoài xã hội. Tích cực tham gia các hoạt động do nhà trường tổ chức, sẵn sàng giúp đỡ bạn và các em nhỏ, những người già, những người tàn tật khi gặp khó khăn...
2.3.3. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp :
GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường.
Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh cá biệt là góp phần cho công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao. Do tính đặc thù của địa bàn dân cư, trường có rất nhiều học sinh cá biệt có mối quan hệ gia đình rất đa dạng và phức tạp, việc tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh giúp cho GVCN thuận lợi trong quản lý, giáo dục học sinh cá biệt.
Đầu năm học GVCN phải có những thông tin khái quát về gia đình học sinh cá biệt như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình với láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt.
Đầu năm học GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh cá biệt về : sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh cá biệt về mọi mặt là rất cần thiết nhưng GVCN phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
GVCN phải tìm hiểu đặc điểm lứa tuổi, năng lực học tập, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh cá biệt, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm.
Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch và nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học đối với học sinh. 
Phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương.
GVCN cần phải nắm được tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, tình hình thời sự, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội để bổ sung kiến thức của mình thêm phong phú để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm.
Cộng tác chặt chẽ với CMHS, chủ động phối hợp với giáo viên bộ môn, Đoàn TNCS HCM, Đội TNTP HCM, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giáo dục đạo đức học sinh cá biệt. 
 Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp, các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó được lập đi lập lại và trở thành thói quen. Phải trân trọng truyền thống sẵn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điền kiện cụ thể.
 Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh.
Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh cá biệt: (học bạ, hoàn cảnh gia đình.)
Trao đổi với học sinh cá biệt để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh.
Trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp.
Trao đổi với ban giám hiệu, tổng phụ trách đội, cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng học sinh cá biệt mà GVCN cần tìm hiểu.
Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh cá biệt.
Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh cá biệt đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả
Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với cha mẹ học sinh cá biệt để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả.
GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trau dồi đạo đức nhà giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
2.3.4. Nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn giáo dục công dân (GDCD ) ở trường THCS:
Ý nghĩa :	
Môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh cá biệt, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THCS, vì thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. 
Trong thực tế hiện nay của các nhà trường môn GDCD chưa được xem trọng, chưa có vị trí vai trò xứng đáng cần phải có trong nhà trường. Việc đưa ra những biện pháp để nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy môn GDCD ở Trường THCS Cẩm Tân là một việc làm có ý nghĩa đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt.
Nội dung :
Làm cho Cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên của trường nhận thức một cách đầy đủ về tầm quan trọng của môn GDCD đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, để từ đó họ có sự thay đổi nhận thức và có những hành động tích cực đối với việc dạy và học môn GDCD.
Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên là giáo viên dạy GDCD được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành giảng dạy, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của môn GDCD, phải xác định được trách nhiệm của bản thân, chú trọng đầu tư cho giảng dạy môn mình phụ trách.
Ban giám hiệu, giáo viên dạy môn GDCD cần quán triệt mục tiêu môn học trong quá trình dạy học. Phải nắm rõ cái đích cuối cùng cần đạt được trong dạy học GDCD là hành động phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Nếu học sinh cá biệt không có chuyển biến trong hành động thì việc dạy học không đạt hiệu quả.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn GDCD là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt.
Yêu cầu khi kiểm tra đánh giá phải coi trọng đánh giá cả nhận thức và đánh giá thái độ hành vi của học sinh cá biệt trước những vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Kiểm tra đánh giá phải chú trọng đến kiểm tra thái độ, tình cảm, các kỹ năng nhận xét đánh giá, phân biệt đúng sai, khả năng vận dụng và thực hành trong cuộc sống.
 Qua việc kiểm tra đánh giá phải giúp đỡ học sinh thấy rõ được năng lực học tập môn học của bản thân, động viên khuyến khích học sinh học tập môn học và giúp giáo viên thấy rõ năng lực học tập của từng học sinh cá biệt để điều chỉnh việc dạy cho phù hợp.
2.3.5. Các nguyên tắc giáo dục đạo đức cho học sinh :
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho HS cá biệt của những thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học sinh cá biệt giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
2.3.5.1. Phương pháp thuyết phục :
Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ
Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như : nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
2.3.5.2. Phương pháp rèn luyện :
Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế:
Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội, đoàn thể và sinh hoạt tập thể. Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt các phong trào này.
Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được xây dựng để giáo dục học sinh bỏ thói hư xấu bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt động mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động tiêu cực và có hại.
2.3.5.3. Phương pháp thúc đẩy :
Là phương pháp xây dựng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
Khen thưởng: là tán dương, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo.
Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự, lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
2.3.6. Xây dựng môi trường trong sáng để giáo dục đạo đức cho học sinh :
Ý nghĩa :
Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là “nhà trường”, từ đúng nghĩa của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội.
Nội dung :
Tổ chức, sắp xếp, tu sửa, trang điểm bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường, nội dung làm sao cho toàn trường đều tóat lên ý nghĩa giáo dục đối với học sinh.
Tạo nên bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một phong cách sinh hoạt của nhà trường , biểu hiện như sau:
Nề nếp tốt: trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc.
Có dư luận tập thể tốt, ủng hộ cái tốt, cái tiến bộ, phê phán cái sai, cái lạc hậu, có phong trào thi đua sôi nổi đúng thực chất.
Có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường: giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối quan hệ phải thực sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh. Học sinh không hỗn xược, không khúm núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy, không tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh có kết quả học tập chưa cao để tìm ra biện pháp giúp đỡ động viên các em phấn đấu tốt hơn.
Phối hợp với phụ huynh học sinh động viên tinh thần cho những em có nhà xa, tạo điều kiện tốt trong học tập cũng như trong việc tham gia các phong trào ở trường lớp.
Đề cử, động viên những em học khá, giỏi giúp đỡ những bạn học còn yếu và trung bình tiến bộ hơn trong học tập bằng cách tổ chức học nhóm, học bài cũ, giải đáp một số thắc mắc trước khi vào tiết học.
Trao đổi với giáo viên bộ môn giúp các em còn yếu bộ môn đó cố gắng học tập để tiến bộ hơn
Thực tế cho thấy, nếu nơi nào có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu quả giữa ba lực lượng giáo dục là gia đình – nhà trường – xã hội thì hiện tượng học sinh cá biệt, việc bỏ học của học sinh sẽ giảm đi rất nhiều.
Về phía nhà trường, một lực lượng giáo dục rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của học sinh thì việc phối hợp chặt chẽ với hai lực lượng giáo dục gia đình và xã hội chưa cao, chưa tạo được sự đồng bộ, đồng thuận trong việc giáo dục các em, còn coi nhẹ kỷ cương – tình thương – trách nhiệm.
Thực tế trong nhà trường phổ thông hiện nay việc giáo dục học sinh cá biệt chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm phụ trách. Có giáo viên tiếp xúc với lớp chủ nhiệm khoảng 7 tiết/tuần nhưng cũng có giáo viên chỉ có tiếp xúc với lớp không quá 3 tiết/tuần. Trong khi công việc của giáo viên chủ nhiệm đâu chỉ có giáo dục học sinh cá biệt.
Thực tế hiện nay các hoạt động, phong trào trong nhà trường (trừ hoạt động giảng dạy) nhìn chung còn nghèo nàn, chưa phong phú, mang tính hình thức. Các phong trào chưa lôi cuốn, hấp dẫn, chưa huy động đông đảo lực lượng học sinh tham gia. Chính vì vậy nhà trường cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục khác bên cạnh hoạt động dạy và học như : đố vui để học, hái hoa dân chủ, các hoạt động văn thể, cắm trại, ngoại khóa chuyên đề, tham quan dã ngoại, ... chính các hoạt động này có tác dụng bổ trợ rất lớn đến hoạt động dạy và học, góp phần thu hút học sinh la cà các hàng quán, các nơi giải trí bi-a, điện tử, ... Trên thực tế những nơi này đang tiềm ẩn khá nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt của các em. Điều này đã được các phương tiện thông tin, báo chí, truyền hình đưa tin không ít.
2.3.7. Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, các tổ chức và nhà trường trong việc giáo dục đạo đức học sinh :
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một yêu cầu hết sức quan trọng (đặc biệt trong điều kiện hiện nay), nếu không đặt đúng vị trí công tác giáo dục đạo đức cho giới trẻ thì e rằng đó là một thảm hoạ cho tương lai. Như Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã từng dạy: “ Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những con người XHCN ”.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh không những đơn thuần nâng cao nhận thức về đạo đức cho các em mà trên cơ sở đó làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng lành mạnh hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn. Cũng trên cơ sở đó các em có khả năng tiếp thu các tri thức khoa học một cách dễ dàng hơn, tâm hồn các em thoải mái, nhẹ nhàng hơn.
Thực tế những năm đứng trên bục giảng, tôi đã đề ra một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục đạo đức học sinh ở lứa tuổi trung học cơ sở đó là:
2.3.7.1. Nâng cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường :
Con người từ khi lọt lòng đến khi trưởng thành luôn có tất cả các mối quan hệ xã hội nhưng thường bị ảnh hưởng bởi quan hệ gia đình thông qua hoạt động thực tiễn hàng ngày của cha mẹ dưới rất nhiều dạng khác nhau. Vai trò của gia đình - tế bào của xã hội là vai trò quan trọng và cấp thiết trong việc cứu vớt lớp trẻ. Có một gia đình hạnh phúc với mọi thành viên đều quan tâm vun đắp, có một gia đình với sự răn dạy đúng mức với những tấm gương tốt học được từ cha mẹ có thể xoá lấp đi những khoảng trống dễ bị cái xấu xâm nhập vào tâm hồn lớp trẻ. Gia đình là nền tảng văn hoá vững chắc. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người.
Chỉ cần cha mẹ sống lành mạnh, lương thiện, mẫu mực, nhân hậu, yêu thương, có trách nhiệm duy trì và bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của gia đình, chấp nhận những cái mới lành mạnh chắc chắn sẽ tạo được niềm tin cho con cái. Đó chính là biện pháp tốt nhất trong giáo dục. Một gia đình ấm êm hạnh phúc, chắc chắn là liều thuốc có sức đề kháng mạnh nhất với những ảnh hưởng xấu ngoài xã hội, cứu được các em sớm thoát khỏi vũng lầy tội lỗi.
Có ai hiểu hơn bố mẹ đối với những đứa con thân yêu của mình, bố mẹ nào mà không thương con cái, chỉ tội chưa hiểu hoặc hiểu chưa thấu đáo nên đành “ Trăm sự nhờ thầy cô ” mà thôi. Trước tình hình đó, một trong những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình đối với con cái mà chúng tôi đã tiến hành có hiệu quả tốt là tổ chức các cuộc họp phụ huynh trong năm.
Trường hợp phụ huynh có học sinh cá biệt, ngoài tham dự những cuộc họp mà nhà trường đã quy định, họ còn “ được ” giáo viên chủ nhiệm và nhà trường mời đến gặp riêng, tất nhiên có những bậc phụ huynh “ được ” dự 5 - 6 cuộc họp trong năm.
Bên cạnh việc tổ chức chu đáo, có chất lượng các kì họp phụ huynh trong năm, sử dụng có hiệu quả “ Sổ liên lạc học sinh ” cũng là một giải pháp tôt. Kinh nghiệm cho thấy: Nếu quản lí không chặt chẽ thì ““ Sổ liên lạc học sinh ” không mấy hiệu quả, có khi còn phản giáo dục nữa. Làm như vậy thời kì đầu nhiều người cho rằng: nh

Tài liệu đính kèm:

  • docThang skkn-2015-2016.doc
  • docM2-Bia.doc