Đề tài Nâng cao chất lượng dạy học nội dung pháp luật trong môn Giáo dục công dân lớp 9 ở trường

Đề tài Nâng cao chất lượng dạy học nội dung pháp luật trong môn Giáo dục công dân lớp 9 ở trường

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

Những nhiệm vụ giải pháp của công tác dạy học nội dung pháp luật trong môn giáo dục công dân 9 tiếp tục trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản cho học sinh về các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong các lĩnh vực như hôn nhân – gia đình, kinh doanh, lao động, trách nhiệm pháp lí, quản lí nhà nước và xã hội, bảo vệ tổ quốc.Hình thành cho học sinh ý thức và các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các qui phạm pháp luật được quy định. Biến kiến thức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện đúng theo các Qui phạm pháp luật. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu để trở thành người công dân trong tương lai. Giáo dục cho học sinh có ý thức sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền.

- Nâng cao chất lượng dạy học bộ môn GDCD nói chung và pháp luật nói riêng, thúc đẩy nhu cầu, ý thức học tập và tự giác thực hiện rộng rãi trong học sinh. Góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của trường, của ngành.

- Giáo viên có điều kiện để nghiên cứu, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

 

doc 30 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 5131Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Nâng cao chất lượng dạy học nội dung pháp luật trong môn Giáo dục công dân lớp 9 ở trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á lạc hậu lỗi thời so với thực tiễn, hiện nay tuy đã có cập nhật song vẫn chưa theo kịp thực tiễn. 
Tuy nhiên cũng do vấn đề khá khó khăn nên tôi luôn mò mẫm thử nghiệm nên cũng không tránh khỏi chủ quan, lúng túng. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục pháp trong trường THCS vẫn còn những hạn chế và khó khăn đó là sách giáo khoa và nội dung chương trình chưa cập nhật kịp thời, các số liệu thống kê kèm theo nhanh lỗi thời...
2.4. Nguyên nhân: 
Có nhiều nguyên nhân từ thực trạng nói trên nhưng có thể chia thành hai nhóm chính đó là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
- Nguyên nhân khách quan là do quan niệm sai lầm của một bộ phận trong xã hội chưa nhìn nhận đúng vai trò vị trí của Khoa học xã hội nói chung và công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên đối với sự phát triển của xã hội nói chung và đối với sự hình thành nhân cách của con người mới nói riêng. Đó là: Kinh phí để tổ chức cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp giữa các ngành chức năng chưa thường xuyên, kịp thời; vai trò của các đoàn thể đối với việc tham gia tuyên truyền pháp luật cho học sinh chưa cao.
- Nguyên nhân chủ quan là còn nhiều người làm công tác giáo dục vẫn còn tư tưởng phân biệt giữa môn chính môn phụ nên gây tâm lí tự ti cho người học lẫn người dạy. Nội dung bài giảng bộ môn giáo dục pháp luật ở nhà trường quá khô khan, biên soạn cứng nhắc trên cơ sở bám sát văn bản pháp quy, không truyền cảm đối với cả hai đối tượng: người dạy và người học. Mặt khác một số thầy cô giáo chưa qua đào tạo mộ Giáo dục công dân nhưng vẫn được phân công để dạy (dạy chéo môn) nên chất lượng tiết học không cao. Chương trình đào tạo giáo viên dạy môn Giáo dục công dân ở trường sư phạm còn chậm đổi mới dẫn đến một số ít giáo viên ra trường nhưng rất non về kiến thức, chưa đam mê, thiếu sáng tạo, thiếu năng lực sư phạm.
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra
	Trong những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội nền giáo dục trên địa bàn huyện cũng có những tiến bộ khởi sắc. Trong tình hình đó đời sống nhân dân được cải thiện sự quan tâm của toàn xã hội đến giáo dục ngày càng lớn.
Đối với ngành giáo dục việc chú trọng nâng cao chất lượng ngày càng được quan tâm và đầu tư ngày càng sâu về nhiều mặt
- Tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội của huyện nhà trong những năm qua ngày càng phát triển. An ninh – chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 
- Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. 
- Công tác chăm lo đến chất lượng giáo dục của các cấp, các ngành và nhân dân có sự chú trọng, đầu tư và hỗ trợ. 
- Nhu cầu học tập và nâng cao kiến thức của học sinh ngày càng tăng. 
- Lãnh đạo phòng, lãnh đạo các trường rất chú trọng đến đầu tư chất lượng mũi nhọn của đơn vị, cá nhân có điều kiện tổ chức tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 
- Về phía giáo viên: Đội ngũ giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ hàng năm được tập huấn chuyên môn, bồi dưỡng thường xuyên, tổ chức các chuyên đề phương pháp dạy học, có kinh nghiệm, có tâm huyết với nghề và trình độ chuyên môn khá vững vàng.
- Về phía học sinh đã được làm quen với phương pháp học tập mới nhu cầu học tập và tìm hiểu khám phá của cũng ngày càng tăng phương tiện tài liệu học tập ngày càng phong phú.
	Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ nhân dân đời sống còn khó khăn, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao nên công tác phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục con em còn hạn chế, một số cha mẹ không quan tâm nhắc nhở việc học tập của con cái mà khoán trắng cho nhà trường và thầy cô giáo không nhắc nhở con em học bài, chuẩn bị bài, tìm tòi học tập.
- Trường THCS Lê Đình Chinh đóng trên địa bàn nông thôn, đại bộ phận nhân dân làm kinh tế Nông nghiệp, ít quan tâm tìm hiểu đến Pháp luật nên ý thức tuân thủ pháp luật còn nhiều hạn chế, để cho con em học sinh vi phạm pháp luật là một hiện tượng thường xuyên xảy ra nhất là vi phạm luật ATGT. Nhiều học sinh chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học nắm bắt tri thức toàn diện nhất là các kiến thức pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân trong bối cảnh hiện nay. 
- Bộ môn GDCD vẫn còn nhiều em chưa thích học do cho rằng đây là môn khó học, dài dòng, phải nhớ nhiều, mất nhiều thời gian, đây là môn phụ chỉ cần đủ điểm là được. 
- Chương trình bộ môn GDCD còn nhiều bất cập nặng nề trong khi đó nhiều văn bản pháp luật mới không thể cập nhật kịp thời vào chương trình nên khó có thể tạo được sự hứng thú cao cho học sinh.
Xuất phát từ những vấn đề trên, theo tôi muốn nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD chúng ta phải nổ lực hết sức và thực hiện đổi mới triệt để tất cả các khâu trong quá trình dạy học. 
 3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 
Những nhiệm vụ giải pháp của công tác dạy học nội dung pháp luật trong môn giáo dục công dân 9 tiếp tục trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản cho học sinh về các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong các lĩnh vực như hôn nhân – gia đình, kinh doanh, lao động, trách nhiệm pháp lí, quản lí nhà nước và xã hội, bảo vệ tổ quốc...Hình thành cho học sinh ý thức và các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các qui phạm pháp luật được quy định. Biến kiến thức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện đúng theo các Qui phạm pháp luật. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu để trở thành người công dân trong tương lai. Giáo dục cho học sinh có ý thức sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền. 
- Nâng cao chất lượng dạy học bộ môn GDCD nói chung và pháp luật nói riêng, thúc đẩy nhu cầu, ý thức học tập và tự giác thực hiện rộng rãi trong học sinh. Góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của trường, của ngành. 
- Giáo viên có điều kiện để nghiên cứu, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 
3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp biện pháp.
Lâu nay công tác giảng dạy GDCD nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng thường ít được quan tâm ở trường phổ thông vì cho rằng đây là môn phụ nhưng trước thực trạng xã hội hiện nay nhiều vụ án xảy ra nhất là án hình sự mà đối tượng gây án có liên quan đến công dân ở độ tuổi Thanh thiếu niên học sinh ngày càng nhiều tới mức báo động. Đến nay vấn đề này cần được nhìn nhận lại nếu chúng ta muốn tăng cường hiệu quả giáo dục, giảm tỉ lệ học sinh vị phạm nội qui, pháp luật chúng ta cần phải thực hiện một số công tác sau:
3.2.1. Đổi mới phương pháp dạy học pháp luật trong GDCD là một tất yếu
Cuộc vận động đổi mới PPDH đã có từ lâu, phổ biến ở các nền giáo dục phương Tây. Đứng trước bối cảnh mới của thời đại ngày nay, đổi mới PPDH đã trở thành một xu thế tất yếu. Tính tất yếu được bắt nguồn từ yêu cầu khách quan sau:
- Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và kỷ nguyên bùng nổ thông tin
- Tác động của xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa. 
- Tác động của xu thế dân chủ hóa và tự khẳng định của mỗi cá nhân.
- Tác động từ xu hướng thay đổi nghề nghiệp hiện nay
- Tác động từ những đổi thay cơ bản trong đối tượng giáo dục
3.2.2.Cần tuân thủ một số định hướng đổi mới PPDH môn GDCD
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12-1996), được thể chế hoá trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hoá trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là Chỉ thị số 15 (4-1999). Luật Giáo dục (2005), Điều 28.2 đã quy định: ''Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS''.
Có thể nói định hướng chung của việc đổi mới PPDH là tăng cường vai trò chủ động, tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong quá trình học tập, khắc phục tình trạng dạy học “thầy thuyết trình, trò thụ động nghe, ghi chép”. Dạy học phát huy tính tích cực nhận thức cho HS là rất cần thiết và đối với học sinh lớp 9 điều này càng cần thiết. Đó chính là việc HS hoàn thành một cách chủ động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến với những hoạt động trí óc và chân tay nhằm nắm vững kiến thức, hình thành kĩ năng và kĩ xảo để vận dụng những nội dung tri thức đã học vào thực tiễn.
Từ định hướng chung kể trên, việc đổi mới PPDH môn GDCD ở trường THCS nói chung và lớp 9 nói riêng được tôi thực hiện theo các định hướng cụ thể sau đây:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh
- Dạy học phải chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
- Dạy học phải tăng cường học tập độc lập kết hợp chặt chẽ với học tập hợp tác
- Dạy học phải kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
- Dạy học kết hợp với sự hỗ trợ có hiệu quả của phương tiện và thiết bị dạy học
3.2.3. Những nguyên tắc giáo dục nội dung pháp luật cho học sinh 9 
 Giáo dục học sinh trong thực tiễn sinh động của xã hội  - Giáo dục theo nguyên tắc tập thể. Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự giác của học sinh. Giáo dục pháp luật cũng giống như đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là chính để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các em.
 Thứ nhất phải tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với học sinh. 
Thứ hai giáo dục đạo đức phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh THCS và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh. 
Thứ ba trong công tác giáo dục pháp luật, người thầy cần phải có nhân cách và hành vi thực hiện pháp luật mẫu mực và phải đảm bảo sự thống nhất giữa các các ảnh hưởng giáo dục đối với học sinh. 
  3.2.4. Đa dạng hóa phương pháp dạy - học:
 Giáo viên có thể kết hợp nhiều phương pháp trong một tiết dạy như:    
 * Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình là PPDH trong đó người GV dùng lời nói sinh động, biểu cảm, thuyết phục để truyền thụ hệ thống tri thức môn GDCD cho HS theo chủ đích nhất định, nhờ đó HS tiếp thu bài giảng một cách có hệ thống.
 Ví dụ: Khi dạy bài Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Giáo viên giảng giải cho học sinh rằng: “Nước ta đi lên xây dựng và phát triển đất nước từ một nước nghèo nàn và lạc hậu. CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên CNXH. Thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi sự đóng góp tích cực của nhân dân cả nước nói chung và thanh niên nói riêng. CNH- HĐH đất nước là cơ hội đối với thanh niên vì họ là lực lượng nòng cốt, là lựclượng xung kích góp phần to lớn vào mục tiêu phấn đấu của cả dân tộc”.
- Một số yêu cầu sư phạm khi thuyết trình:
+ Người GV cần có sự mẫu mực trong tác phong và lối sống đạo đức, thái độ làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, lối ứng xử thân tình, gần gũi HS.
+ Lời giảng cần chính xác, rõ ràng và đạt tới sự biểu cảm 
+ Tốc độ và cường độ của lời giảng phải phù hợp với đặc điểm tri thức của bài học, đối tượng nhận thức.
+ Khi sử dụng phương pháp thuyết trình cần phải nghiên cứu kỹ mục tiêu, chuẩn kiến thức, kỹ năng và nội dung của bài học để xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm và lựa chọn những nội dung thiết thực nhất đưa vào giảng dạy. Trên cơ sở xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài dạy, căn cứ vào thời gian lên lớp, trình độ của đối tượng, mục tiêu và chuẩn kiến thức của từng bài, giáo viên sẽ xác định và lựa chọn những nội dung phải nói, cần nói và nên nói tương ứng với những gì người học phải biết, cần biết và nên biết.
+ Sử dụng các thao tác tư duy lôgíc để giúp HS khai thác sâu nội dung bài học. 
+ Kết hợp với các PPDH khác một cách linh hoạt và khai thác sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin.
 * Phương pháp vấn đáp (đàm thoại)
Vấn đáp (đàm thoại) là PPDH, trong đó việc truyền thụ và lĩnh hội tri thức mới giữa GV và HS thông qua việc trả lời những câu hỏi, gợi ý do GV nêu ra.
 - Các dạng vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ với yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết để trả lời
+ Vấn đáp giải thích - minh họa: Loại vấn đáp này được dùng với mục đích làm sáng tỏ, minh chứng một nội dung tri thức nào đó. 
+ Vấn đáp tìm tòi: Đây là dạng vấn đáp phổ biến trong dạy học GDCD và đòi hỏi cao nhất tính chủ động, sáng tạo của HS. 
- Yêu cầu sư phạm
+ Sử dụng các hình thức của phương pháp vấn đáp một cách linh hoạt sao cho phù hợp với mục tiêu bài dạy, nội dung tri thức và đối tượng tiếp thu. 
+ Các câu hỏi đặt ra phải có sự chọn lọc, sắp xếp, theo một hệ thống xác định, hợp lý, nhất là đối với dạng vấn đáp tìm tòi. Khi chuyển từ câu hỏi này sang câu hỏi khác cần tạo ra sự liện hệ giữa chúng để kiến thức không bị cắt rời.
+ Câu hỏi trong phương pháp đàm thoại phải ngắn gọn, đơn nghĩa, tường minh, dễ hiểu, phù hợp với nội dung bài học, năng lực tiếp nhận của HS. 
+ Cần khuyến khích HS mạnh dạn đặt ra những câu hỏi, vấn đề liên quan đến nội dung bài học và thực tiễn đang diễn ra xung quanh.
+ Phối hợp với các phương pháp khác nhất là các phương pháp mới để tăng cường phát huy tính tích cực của HS, đặc biệt là phương pháp thảo luận nhóm, đóng vai, trò chơi.
+ Thiết lập và duy trì mối quan hệ thầy trò gần gũi trong quá trình vận dụng phương pháp. GV tôn trọng kết quả trả lời của HS, động viên, khen ngợi những câu trả lời xuất sắc, nhẹ nhàng uốn nắn những câu trả lời sai.
 * Phương pháp trực quan
Trực quan là PPDH trong đó GV sử dụng các phương tiện tác động trực tiếp đến cơ quan cảm giác của HS giúp các em tiếp thu tri thức của bài học một cách nhẹ nhàng, sinh động và hiệu quả.
Nếu căn cứ vào các giác quan mà phương tiện trực quan tác động thì có thể phân chia thành các dạng trực quan sau đây:
+ Phương tiện trực quan tác động vào thị giác, bao gồm tranh, ảnh, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị, hình vẽ của GV trên bảng...
+ Phương tiện trực quan tác động vào thính giác bao gồm âm thanh, 
+ Phương tiện trực quan tác động tổng hợp các giác quan, bao gồm phim, video, clip, vật thể, sự vật, hiện tượng trong quá trình tham quan thực tế.
 - Các bước tiến hành:
+ GV đưa ra phương tiện, tài liệu trực quan theo ý đồ giảng dạy
+ HS tiếp cận, khai thác thông tin từ phương tiện trực quan theo các câu hỏi, yêu cầu, gợi ý của GV.
+ HS phát biểu, trao đổi, thảo luận về thông tin thu được.
+ GV tổng hợp và đưa ra kết luận.
Ví dụ: Khi dạy bài Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc. Giáo viên cho học sinh quan sát ảnh Chiến sĩ Hải quân canh giữ đảo Trường sa lớn.
Giáo viên đặt câu hỏi: 
+ Em có suy nghĩ gì về bức ảnh trên?
+ Bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm của ai?
- HS phát biểu, trao đổi, thảo luận về thông tin thu được.
- GV tổng hợp và đưa ra kết luận.
- Một số yêu cầu sư phạm:
+ Phải lựa chọn phương tiện trực quan phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của tiết học.
+ Các tài liệu trực quan đưa ra cần đảm bảo tính chính xác, chân thực, rõ ràng. Cần hết sức tránh sử dụng những tài liệu trực quan chưa được kiểm tra kĩ càng, không đảm bảo độ tin cậy.
+ Phải xác định được thời điểm sử dụng phương tiện sao cho thích hợp và hiệu quả nhất.
+ Sử dụng các phương tiện trực quan cần đúng địa chỉ, đúng chỗ, đúng thời điểm..
+ Phải nắm vững các yêu cầu và cách thức sử dụng đối với từng loại phương tiện trực quan.
+ Nhanh chóng tiếp cận, khai thác các thành tựu mới nhất: các phần mềm dạy học, internet... vào dạy học trực quan để đạt hiệu quả cao hơn.
+ Không được lạm dụng các phương tiện trực quan.
 * Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là PPDH trong đó lớp học được chia thành những nhóm nhỏ để bàn bạc, trao đổi, thảo luận về một vấn đề học tập và đưa ra ý kiến chung của nhóm về vấn đề đó. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho HS có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến nội dung bài học.
 - Các bước tiến hành
Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau:
+ GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, phân công vị trí làm việc, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm và quy định thời gian.
+ Các nhóm tiến hành thảo luận (trong thời gian quy định).
+ Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận. 
+ Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
+ GV đánh giá và cung cấp thông tin phản hồi (kết luận).
	Ví dụ: Khi dạy bài Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân. Giáo viên nêu vấn đề: Tại sao lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân? Cho các em thảo luận rồi rút ra kết luận.
 - Yêu cầu sư phạm:
+ Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo tổ, theo giới tính, theo vị trí ngồi.
+ Quy mô nhóm có thể lớn hơn hoặc nhỏ tùy theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất bởi lẽ: Số HS như vậy vừa đủ để đảm bảo tất cả HS có thể tham gia ý kiến nhưng cũng đủ để đảm bảo không thiếu ý tưởng cho sự tranh luận.
+ Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
+ Cần quy định rõ thời gian thảo luận và thời gian trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm.
+ Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: Bằng lời, đóng vai, viết, hoặc vẽ trên giấy khổ to... Có thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày, mỗi người mỗi đoạn nối tiếp nhau.
+ Trong thời gian HS thảo luận theo nhóm nhỏ, GV cần di chuyển giữa các nhóm để bao quát lớp và lắng nghe ý kiến của HS, giúp đỡ, gợi ý cho các em nếu được yêu cầu.
 * Phương pháp nêu vấn đề
 - Phương pháp nêu vấn đề là PPDH, trong đó GV giúp HS xem xét, phân tích những tình huống có vấn đề và xác định những cách thức giải quyết tình huống đó nhằm tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng và hình thành tư tưởng, thái độ.
- Đặt vấn đề, bao gồm:
+ Xác định hay phát hiện vấn đề.
+ Nêu lên những chi tiết có liên quan đến vấn đề (minh chứng).
+ Nêu lên những câu hỏi định hướng, gợi ý, làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề. 
- Giải quyết vấn đề:
+ Đề xuất cách giải quyết.
+ Lập kế hoạch (các bước) giải quyết.
+ Thực hiện kế hoạch.
 - Kết luận:
+ Liệt kê tất cả các giải pháp.
+ Đánh giá kết quả các giải pháp (tích cực, hạn chế...).
+ So sánh kết quả các giải pháp.
+ Quyết định chọn giải pháp tốt nhất.
+ Khơi gợi, đề xuất vấn đề mới.
Ví dụ: Khi dạy bài Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân. 
Để tạo thói quen và rèn luyện trong lao động giáo viên có thể gợi ý cho các em tham gia các hoạt động lao động sản xuất trong gia đình trên cơ sở đặc điểm thể chất, sức khỏe phù hợp và coi lao động như là một hoạt động để cải thiện sức khỏe và thể lực cho mình chứ không giành thời gian rảnh cho các thú vui như chơi Game hay chát với nhau qua Internet. 
- Yêu cầu sư phạm
+ Lực chọn các kiểu dạy học nêu vấn đề ở mức độ khó dễ khác nhau phù hợp với trình độ nhận thức và khả năng giải quyết của HS. 
+ Vấn đề được lựa chọn phải phù hợp với nội dung của bài học, có tính thời sự, tiêu biểu, gắn với thực tiễn cuộc sống của HS và kích thích được óc tò mò, ham hiểu biết và sự sáng tạo của HS.
+ Vấn đề được tạo ra phải chứa đựng mâu thuẫn, phù hợp với nội dung bài học và tạo được sự hứng khởi trong tiếp nhận và giải quyết từ phía HS.
 + Vấn đề có thể được cả lớp giải quyết hoặc thông qua các nhóm học tập.
 	+ Khai thác sự hỗ trợ của phương tiện, thiết bị dạy học nhằm tạo ra tính phong phú, đa dạng của tình huống. 
+ Chú trọng đến tính độc lập, tự lực của HS trong quá trình tiếp nhận và giải quyết tình huống dưới sự hướng dẫn của GV.
+ Khuyến khích HS trên cơ sở nội dung bài học cần liên hệ để phát hiện và tham gia giải quyết những vấn đề đang nảy sinh trong cuộc sống. 
 * Phương pháp xử lý tình huống 
Phương pháp xử lý tình huống là một PPDH, trong đó HS tự lực nghiên cứu một tì

Tài liệu đính kèm:

  • docthcs_28_8975_2010924.doc