Kết hợp củng kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn sẽ giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán. Bởi vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán nhưng cách giải sai dẫn đến bài toán giải sai. Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn. Bởi chúng ta biết rằng đa số các em yếu, kém về môn Toán thường gặp khó khăn trong việc giải Toán có lời văn. Tôi đã hướng dẫn giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ được từng dạng bài toán.
để tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp tôi đã suy nghĩ và trao đổi cùng đồng nghiệp đưa ra “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh lớp yếu kém môn Toán lớp 4” như sau: II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM VỀ MÔN TOÁN LỚP 4. Giải pháp 1. Chỉ đạo giáo viên theo dõi thường xuyên, nắm bắt cụ thể tình hình học sinh yếu. Tôi đã chỉ đạo giáo viên theo dõi kết quả làm bài tập trên lớp và làm bài tập về nhà hàng ngày, theo dõi kết quả kiểm tra định kỳ, sớm phát hiện ra các trường hợp học sinh có khó khăn trong học tập và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến tình hình đó đối với các em. - Ngay từ đầu năm học, tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn Toán. - Lập danh sách và phân loại học sinh yếu, kém về môn Toán, phân tích nguyên nhân. Tôi hướng dẫn giáo viên phân loại học sinh học yếu theo những nguyên nhân chủ yếu như: Do hổng kiến thức, kỹ năng từ lớp dưới, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do trí tuệ chậm phát triển... Thực hiện theo kế hoạch, tôi cùng với giáo viên dạy khối 4 đã khảo sát và phân loại học sinh yếu môn toán theo các nhóm nguyên nhân chủ yếu như sau: + Nhóm khả năng tiếp thu bài chậm, chưa chăm học, hổng kiến thức lớp dưới như chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, chưa biết tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải toán có lời văn còn yếu: Nhóm này có 7 em. + Nhóm do hoàn cảnh gia đình và các nguyên nhân khác: Nhóm này có 4 em. Trong nhóm này các em có khả năng tiếp thu bài tốt. Nhưng vì điều kiện gia đình khó khăn không có người chăm lo, đôn đốc học tập nên các em chưa tích cực học tập, không hoàn thành nhiệm vụ học tập, dẫn đến kết quả học tập sa sút và liên tục bị điểm yếu. Giải pháp 2. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu, kém về môn toán phù hợp với đối tượng học sinh. Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, kém về môn Toán của từng em, tôi đã hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu, kém với yêu cầu: + Lập kế hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả tiết chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học và cụ thể cho từng tuần, từng tháng. + Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. + Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Như nhớ được bảng nhân, bảng chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hổng về kiến thức cho học sinh. * Ví dụ nội dung phụ đạo học sinh học yếu môn toán lớp 4: Tuần 1: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh. Tuần 2: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5. Tuần 3: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 6,7,8,9. Tuần 4: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tuần 5: Củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn. Tuần 6: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn. Tuần 7: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên, củng cố mối quan hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn... Cứ tiếp tục như vậy, nội dung các buổi phụ đạo sau phải có sự củng cố lại những kiến thức đã học ở các buổi học trước và tập trung chủ yếu vào củng cố cho học sinh kĩ năng thực hiện thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên ở học kì I. Nội dung củng cố kĩ năng thực hành làm tính với số tự nhiên, giáo viên linh hoạt bằng nhiều bài toán khác nhau. Có thể là các dạng bài như: đặt tính rồi tính; tính giá trị biểu thức; tìm x; toán có lời văn Phải cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần một dạng bài tập để các em thành thạo. Việc củng cố kiến thức đã học thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4. Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu tiếp thu những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em. + Cuối tuần kiểm tra 1 lần, cuối mỗi tháng, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi kết quả học tập của các em. Lập sổ theo dõi quá trình phụ đạo, nâng bậc học sinh yếu (suốt cả năm học). + Kết hợp chặt chẽ với gia đình và nhà trường. Có sổ liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh, thường xuyên đến thăm và động viên gia đình học sinh. + Thời gian phụ đạo chủ yếu vào các buổi chiều trong tuần( thứ 3 và thứ 5), lồng ghép vào chương trình chính khoá và với một số tiết hoạt động tập thể hay giờ giải lao( trong đó tổ chức các trò chơi có nội dung toán học). + Kế hoạch bồi dưỡng phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể là: cuối học kì I không còn tình trạng học sinh bị hổng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến đâu phải đạt yêu cầu đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình toán lớp 4). Đến cuối năm học, không còn học sinh nào học yếu môn toán. Giải pháp 3 : Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch: Phụ đạo học sinh học yếu nói chung và học sinh học yếu môn toán nói riêng là việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình và kiên trì, yêu thương học sinh. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, giáo viên không được nóng vội, phải thực hiện kế hoạch theo từng bước hợp lí. Đồng thời không cứng nhắc rập khuôn theo kế hoạch mà cần phải linh hoạt điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện. Căn cứ vào kết quả tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu môn toán ở khối 4, tôi hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch phụ đạo với những nội chủ yếu như sau: 1. Củng cố 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Bởi vì số học sinh học kém môn Toán khối 4, đa số do khả năng tiếp thu bài chậm, còn hổng kiến thức từ lớp dưới, vì thế đã học lên lớp 4 nhưng các em này vẫn chưa thuộc lòng bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, 3 còn yếu trong việc vận dụng bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có lời văn. Điều đó rất bất lợi cho các em trong quá trình học toán ở lớp 4 và lên lớp 5. Để các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, tôi xác định việc làm đầu tiên dạy lại những kiến thức cơ bản giúp học sinh lấp được lỗ hổng kiến thức. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn cho giáo viên giao cho học sinh yếu cứ mỗi tuần phải học thuộc 3 đến 5 bảng nhân, bảng chia, mỗi buổi học giáo viên dành 5 phút với buổi chính khoá, 15 phút với buổi phụ đạo để kiểm tra việc học của học sinh. Cuối tuần giáo viên lại tổ chức cho các em thi đọc bảng cửu chương (15-20 phút). Sau hai tuần đầu tôi kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều học thuộc bảng nhân, bảng chia nhưng khi vận dụng làm một phép tính cụ thể (VD: 124 : 2) thì có em làm được nhưng rất chậm, có em không làm được. Tôi trăn trở tìm nguyên nhân, thì ra các em chỉ thuộc "vẹt" bảng nhân, bảng chia. Tiếp theo tôi hướng dẫn giáo viên điều chỉnh cách kiểm tra, phải chỉ định học sinh đọc bảng nhân, chỉ rõ bản chất của phép nhân là kết quả của phép cộng của các số bằng nhau, hướng dẫn các em học thuộc nhừ bảng nhân 5, thuộc nhừ cách tính một số nhân với mười để các em dựa vào đó tìm kết quả phép tính nhân, chia trong bảng khi chưa thuộc lòng: Ví dụ bảng nhân 3, hỏi phép nhân, phép chia bất bất kì 36 = ? (học sinh vận dụng kết quả phép nhân 35 = 15 suy ra kết quả 36 = 15 + 3 = 18); 39 = ?... (suy từ 310=30 ra 39 = 30- 3 =27). Từ đó giúp các em học thuộc lòng. Đồng thời củng cố vận dụng bảng nhân chia, bảng chia bằng cách giao cho các em thực hiện những phép tính đơn giản không có nhớ như: 24 2; 123 3; 84 : 2; 124: 4 ... Đến tuần sau, vào các buổi chiều phụ đạo HS yếu, kém tôi hướng dẫn giáo viên thay đổi hình thức kiểm tra, khác với các tuần trước. Giáo viên ghi sẵn nội dung kiểm tra lên 2 tấm bìa và gắn lên bảng: 5 6 = ... 35 : 7= .... 4 5 = 25 : 5 = . 7 8 = .... 48 : 6 = 3 9 = 36 : 6 = .. 4 9 = .... 64 : 8 = 9 6 = . 42 : 7 = .. 6 9 = .... 72 : 9 = 7 7 = 45 : 5 = . .. . ... Cứ mỗi lần, gọi 2 HS lên bảng làm bài (HS ghi kết quả vào chỗ chấm). Lần này không ghi theo thứ tự phép tính của bảng nhân hay bảng chia mà ghi bất kì phép nhân hay phép chia trong bảng, mục đích là để học sinh thuộc lòng bảng nhân, bảng chia mà các em đã học. Đồng thời tiếp tục củng cố kĩ năng vận dụng thực hành các phép tính nhân, chia bằng các bài như đặt tính rồi tính, tính giá trị biểu thức đơn giản, tìm Không những yêu cầu các em học thuộc bảng nhân, bảng chia mà giáo viên còn phải giao cho các em về nhà viết lại nhiều lần thay cho bài kiểm tra và được giáo viên chấm điểm chặt chẽ các bài này. Ngoài ra giờ ra chơi hay giờ giải lao của buổi học, giáo viên phải gần gũi và nói chuyện với các em, lồng vào đó là những mẫu chuyện vui về toán học, những câu đố đơn giản đố các em về phép nhân hay phép chia. Các em đã thi nhau trả lời và như vậy đã giúp các em dễ nhớ được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2,3. 2. Củng cố kỹ năng giải toán. Kết hợp củng kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn sẽ giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán. Bởi vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán nhưng cách giải sai dẫn đến bài toán giải sai. Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn. Bởi chúng ta biết rằng đa số các em yếu, kém về môn Toán thường gặp khó khăn trong việc giải Toán có lời văn. Tôi đã hướng dẫn giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ được từng dạng bài toán. Tôi đã định hướng cho giáo viên củng cố cho học sinh cách giải các dạng toán điển hình của lớp 3 kết hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh yếu có đặc điểm là rất ngại, thậm chí sợ làm toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em còn nhiều hạn chế” nên chưa có khả năng phán đoán suy luận. Do đó, khi làm toán có lời văn các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Có em giải “bừa” cho xong. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi củng cố kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu thì chỉ cần ra với dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố lý thuyết mà thôi. Không nên ra những bài lắt léo hay những bài phải qua bước trung gian mới về dạng cơ bản. Đến khi học sinh lấp được những chỗ hổng kiến thức đã học thì mới nâng dần mức độ lên. * Một số dạng toán điển hình lớp 3 cần phải ôn tập củng cố là: - Dạng bài gấp một số lên nhiều lần. Ví dụ: Thủy có 35 que tính. Hà có số que tính gấp 3 lần Thủy. Hỏi hai bạn có bao nhiêu que tính? - Dạng bài giảm một số đi nhiều lần. Ví dụ: Thủy có 105 que tính. Thủy có số que tính gấp ba lần số que tính của Hà. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu que tính? - Dạng bài tìm một phần mấy của một số: Ví dụ: Một đàn gia cầm của một nhà có 128 con vịt và gà. Trong đó số gà bằng cả đàn. Hỏi đàn gia cầm đó có mấy con gà? - Dạng bài có liên quan đến rút về đơn vị: Ví dụ: Có 70 xếp giấy gói đều thành 7 bọc. Hỏi có 100 xếp giấy sẽ gói được bao nhiêu bọc như thế? - Dạng bài tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật; Ví dụ: + Tính chu vi, diện tích thửa ruộng hình vuông có cạnh 24 m. + Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều rộng 9m, chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi và diện tích của thửa ruộng đó. Để kết hợp tốt giữa lấp lỗ hổng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi chỉ đạo giáo viên thực hiện nội dung củng cố kĩ năng giải các bài toán điển hình lớp 3 trong những tuần đầu của năm học (khoảng 6 đến 8 tuần đầu). Song song với việc bổ sung chỗ hổng kiến thức lớp 3 thì trong các tiết học chính khóa, giáo viên giúp học sinh yếu biết giải các bài toán giải dạng toán điển hình lớp 4 đồng thời cần phải ôn tập củng cố ngay ở các tiết học phụ đạo. Nhất định không để học sinh hổng kiến thức đã học nữa. Tôi đã đề ra một số lưu ý với giáo viên: Khi hướng dẫn cho học sinh cách giải và trình bày bài giải, giáo viên phải hướng dẫn gợi mở từng bước cụ thể, giúp học sinh thể hiện khả năng giải toán của mình là cần thiết. Vì vậy giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu kĩ đề bài toán, Tóm tắt đề bài toán, nhìn vào tóm tắt đọc lại đề bài toán. Đặt những câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh từng bước tìm cách giải và chọn cách giải hợp lý nhất, ngắn gọn nhất, lời giải rõ ràng chính xác, đúng nội dung bài toán yêu cầu tìm gì. Đồng thời chú ý hướng dẫn các em khi thực hiện tìm kết quả của phép tính cần làm ra nháp cẩn thận, kiểm tra kết quả rồi mới viết vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy. 3. Quan tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Với những đặc điểm của học sinh yếu, kém nói chung và môn toán nói riêng, tôi đã khẳng định rằng học sinh yếu, kém môn Toán cần được quan tâm, hỗ trợ dạy học một cách tích cực. Còn với học sinh học yếu nguyên nhân do điều kiện hoàn cảnh gia đình tôi chỉ đạo giáo viên phải có sự quan tâm đặc biệt. Ngoài việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hổng kiến thức đồng thời phải có sự quan tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất. Vì vậy tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thường xuyên đến thăm một số gia đình học sinh yếu trong khối 4 như gia đình em Huyền Thương lớp 4B, gia đình em Đình Hiếu lớp 4C ... và một số gia đình học sinh khó khăn khác. Cảm thông được nỗi vất vả của các em, tôi đề nghị Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ cho các em quần áo, sách vở, kết hợp cùng với Đội Thiếu niên nhà trường, tôi đã cùng các cô giáo chủ nhiệm trao quà cho các em trong dịp Tết Nguyên Đán. Nhận được sự quan tâm, động viên kịp thời của nhà trường cũng như cô giáo chủ nhiệm, gia đình các em đã hiểu và tạo điều kiện cho các em đi học đầy đủ. Tôi còn hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm, khi ở trường, trong giờ học, giờ ra chơi, thường xuyên gần gũi, tâm sự với em, kể cho em nghe một số tấm gương biết vượt khó trong học tập, giúp em khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập. Giải pháp 4: Tổ chức cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực. 1. Linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học khi tổ chức các hoạt động học tập. Để thực hiện việc lấp "lỗ hổng" kiến thức cho học sinh yếu, kém toán có hiệu quả và dạy kiến thức mới tôi đã tổ chức cho giáo viên tìm ra những phương pháp giảng dạy thích hợp, tập trung các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia với mức độ yêu cầu vừa sức để các em nâng dần trình độ; không nôn nóng sốt ruột, khắc phục tình trạng ngại khó của học sinh. Để giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt có hiệu quả trong việc phụ dạo học sinh yếu kém, Nhà trường đã tổ chức từ đầu năm học chuyên đề “Biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu”. Qua đó nhằm phát huy trí tuệ tập thể để giúp giáo viên tìm ra cách dạy đạt hiệu quả cao trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tiếp theo liên tục đề cập đến chuyên đề này để bổ sung và điều chỉnh biện pháp thực hiện. Qua đó, tôi đã khái quát giúp giáo viên một số điều cần lưu ý khi thực hiện phụ đạo học sinh yếu như sau: - Trong các tiết học giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được hoạt động cho dù là đối tượng học sinh giỏi hay học sinh yểu. Bằng mọi cách phải lôi cuốn các em tham vào các hoạt động học tập, tránh tình trạng giáo viên để học sinh ngoài lề. Trong một tiết học, đến phần bài tập giáo viên phân bài cho từng đối tượng học sinh: Ví dụ: Bài tập 1,2 cho nhóm yếu làm; Bài tập 1,2,3 cho nhóm trung bình làm; Bài tập 2,3,4 cho nhóm khá giỏi làm. - Cần thực hiện linh hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá trình dạy bài mới, nếu có học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến thức lớp dưới hoặc kiến thức bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài mới vẫn cho học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện tập, giáo viên cho những học sinh yếu làm các bài mà kiến thức liên quan đến lớp dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới của bài học. Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 135 6 = ? với bài này học sinh làm không được chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 6. Vậy giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại bảng nhân 6 cho thuộc. Tức là phát hiện học sinh hổng kiến thức ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập, bổ sung ở đó. - Trong các buổi dạy phụ đạo, nội dung chủ yếu là kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp hoặc ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm chắc hơn. Tôi hướng dẫn giáo viên, trong mỗi tiết dạy, xác định rõ mục tiêu của từng bài, từng hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. - Khi hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, Giáo viên cần giao việc phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cụ thể là: Bài tập dành cho học sinh cả lớp; Bài tập cho học sinh khá giỏi; Riêng đối với học sinh yếu, kém về môn Toán giáo viên không nên giao nhiều bài tập về nhà, chỉ cần 1 đến 2 bài thôi. Em nào yếu quá giáo viên phải ghi bài tập vào phiếu và kèm theo một vài câu hỏi để học sinh có thể tự kiểm tra hay chỉ rõ ý chính cần đi sâu, nhớ kỹ để hiểu rõ “cái đã cho, cái phải đi tìm”. Bài tập về nhà do các em làm, yêu cầu phụ huynh kí vào phía dưới để có sự giám sát, đốc thúc kịp thời của gia đình. Đến lớp, giáo viên kiểm tra cụ thể các sai lầm mắc phải của học sinh để phân tích và sửa chữa. 2. Gây hứng thú học tập cho học sinh. Bởi vì học sinh yếu vốn ngại học, ngại bày tỏ ý kiến nên để cuốn hút các em tích cực tham gia các hoạt động học tập thì giáo viên phải có những hình thức tổ chức các hoạt động học tập gây được hứng thú cho tất cả học sinh tham gia, kể cả học sinh yếu. Để gây hứng thú cho các em học tập, trong dạy học toán giáo viên có thể thực hiện như sau: Trong các tiết học vận dung các hình thức dạy tích cực như: Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp sức) có thi đua giữa các nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được giao phần việc làm vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoạt thay đổi như nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên... Giáo viên phải tạo cơ hội cho tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu. Động viên khuyến khích kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học sinh yếu mạnh dạn, tự tin hơn. Thường xuyên tổ chức "Hội vui học tập" vào các tiết hoạt động tập thể. Hoặc tổ chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái hoa dân chủ, Tuổi thơ khám phá 3. Tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến, xây dựng môi trường học tập thân thiện . Ở lớp cũng như ở nhà, giáo viên tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém. Trên lớp, cần sắp xếp 1 học sinh giỏi giúp đỡ 1 bạn học sinh yếu bên cạnh. Tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp bạn, nếu bạn nào có tiến bộ thì biểu dương cả nhóm vào tiết chào cờ sáng thứ 2 đầu tuần. Ở nhà, giáo viên sắp xếp các em gần nhà nhau thành 1 nhóm và cử 1 học sinh làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi học. Không những thế, tôi còn hướng dẫn giáo viên yêu cầu các em Nhóm trưởng kiểm tra kỹ về cách học, cách trình bày bài làm, chữ viết, của các bạn. Giáo viên kiên trì uốn nắn và sửa những thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài tập, tính toán cẩu thả, không làm nháp hoặc viết lộn xộn, phát biểu không chính xác, trình bày bài tuỳ tiện, giải toán xong không chịu thử lại Khuyến khích, động viên đúng lúc, kịp thời khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả (dù sự tiến bộ nhỏ nhất); phân tích, phê bình đúng mức thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập, nhưng tuyệt đối tránh thái độ lời nói chạm lòng tự ái của học sinh để các em phấn khởi học tập xóa đi ấn tượng sợ học môn Toán. Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho giáo viên vận dụng các biện pháp, linh hoạt sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như trên. Qua kết quả kiểm tra trên lớp, qua các bài kiểm tra Tôi thấy các em học sinh yếu đã tiến bộ rất nhiều. Đến
Tài liệu đính kèm: