Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm non

Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (LQVTPVH) là một trong những

hoạt động ở trường mầm non được trẻ yêu thích. Hoạt động làm quen với tác

phẩm văn học là loại hình nghệ thuật; đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi

đầu thơ ấu, trẻ đã sống chan hoà trong không khí lời ru “ầu ơ” đầy yêu thương

tận tình của bà, của mẹ. Đó chính là trẻ đã được đến với văn học và đó cũng là

cánh cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ. Đặc biệt văn học có tác động mạnh

mẽ đến sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ; là phương tiên dẫn dắt trẻ đến với thế

giới xung quanh.

Qua những bài ca dao, câu chuyện là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng

nói cho trẻ học tập, là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu

thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, tình yêu mến bạn bè với những người thân

thiết, biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác, phê phán

những việc làm xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn. Điều đó chính là

văn học là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng cho trẻ thơ.

Với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 tuổi, vốn từ và ngôn ngữ của trẻ đang

phát triển mạnh mẽ. Vì vậy cần thiết phải quan tâm phát triển để hướng đến kết

quả mong đợi tối ưu nhất về phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi.

Để đạt được hiệu quả nói chung và hoạt động cho trẻ (LQVTPVH) nói

riêng, đòi hỏi cô giáo mầm non luôn phải tìm tòi các giải pháp tổ chức thực hiện

các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ tốt nhất.

Tôi nhận thức rõ mọi hoạt động học tập và vui chơi được tổ chức trong

quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường mầm non. Những hoạt

động đó còn là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng, thông

qua đó mở rộng vốn hiểu biết của trẻ đối với cuộc sống xung quanh, trẻ biết tích

luỹ được những kinh nghiệm sống, làm phong phú thêm vốn từ của trẻ, trẻ biết

nói đủ câu, chính xác, biểu cảm. Trong năm học này tôi đã quan tâm tìm tòi các

giải pháp tổ chức tốt cho trẻ (LQVTPVH). Xuất phát từ vấn đề trên bản thân tôi

mạnh dạn chọn đề tài "Một số giải pháp giúp trẻ 3- 4 tuổi làm quen với tác

phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non.” để

nghiên cứu.

 

pdf 19 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1567Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc tri giác
nên đã hiểu rõ tính cách của nhân vật biết phân biệt việc tốt đẹp, việc xấu, để
4
hướng tới cái đích mà trẻ cần học tập đó là những việc làm tốt, dũng cảm, yêu
thương giúp đỡ bạn bè như bạn thỏ trắng.
Hoặc khi dạy trẻ bài thơ: “Thăm nhà bà” tôi gây hứng thú bằng cách cho
trẻ hát bài: “Cháu yêu bà”, trò chuyện với trẻ về nội dung bài hát và hỏi trẻ:
Chúng mình vừa hát bài gì? bài hát nói về ai? Chúng mình có yêu quý bà
không? Yêu quý bà chúng mình phải làm gì?
Cô khẳng định lại và nói: các con ạ trong mỗi chúng ta ai cũng có bà vậy
các con hãy yêu thương chăm sóc và giúp đỡ bà của chúng mình nhé. Có một
bài thơ rất hay nói về một em bé rất yêu quý bà nên em bé đã đến thăm bà và
biết giúp đỡ bà khi bà đi vắng đấy đó là bài thơ “Thăm nhà bà” của nhà thơ Như
mạo đấy. Bây giờ chúng mình cùng lắng nghe cô đọc bài thơ “Thăm nhà bà” của
nhà thơ Như Mạo nhé.
Hay Khi mở máy chiếu ra thì có hình ảnh động đưa đến con mắt nhìn của
trẻ các hình ảnh động màu sắc đẹp như bài thơ “Bác Gấu đen”. Có hình ảnh về
Bác Gấu đang đi trong rừngTừ đó trẻ hứng thú học một cách tích cực nhớ bài
sâu hơn.
 Từ cái nhìn các hình ảnh trên máy trẻ sẽ có ý kiến bổ sung vào các biểu
tượng mà trẻ thích với các hình ảnh trên máy, có thể trẻ tự đặt tên cho các hình
ảnh trên máy theo ý của mình
Ví dụ: Bài thơ “Hoa kết trái” khi cô đọc: 
“Hoa cà tim tím 
 Hoa mướp vàng vàng”
Cô vừa đọc diễn cảm lời thơ vừa đưa hình ảnh về hoa Cà có màu tím, hoa
Mướp có màu vàng. Các cánh hoa được cô làm hình ảnh rất hấp dẫn và sinh
động. Qua đó trẻ hứng thú lắng nghe cô đọc một cách say mê.
5
Các hình ảnh minh hoạ cho bài thơ tôi đưa vào lúc đọc diễn cảm bài thơ
lần 2 và ở phần giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ.
 Với hình thức giới thiệu bài bằng hình ảnh sinh động trên máy vi tính ,vật
thật, trò chơi, câu đố, đồng dao... trẻ rất hứng thú và tiếp thu bài tốt. Trẻ có cảm
giác thoải mái “Học bằng chơi, chơi mà học”. Từ đó giúp trẻ có sự liên tưởng
chặt chẽ qua hình ảnh với lời đọc kể diễn cảm, giúp trẻ ghi nhớ nội dung bài học
lâu hơn và khả năng bắt chước, học thuộc lòng của trẻ. Từ những bài thơ, câu
chuyện đã giúp trẻ phát triển óc quan sát, trí nhớ, tính tư duy trực quan hành
động và tư duy trực quan hình tượng, sự ghi nhớ có chủ định . Đặc biệt là phát
triển cơ quan ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Theo phương pháp dạy học tích hợp với môn làm quen văn học có thể
lồng ghép, kết hợp với tất cả các môn khác điều đó sẽ giúp cho các bộ môn khác
trở lên sinh động hơn và trẻ hiểu được nhiều vốn từ hơn.
Ví dụ: Môn âm nhạc vận động theo nhạc bài hát bài “Cả nhà thương
nhau” sáng tác “Phan Văn Minh” Vào đầu bài cô sẽ kể đoạn truyện: “Gấu con
chia quà”
Ví dụ: Môn tìm hiểu môi trường xung quanh: “Nhận biết một số phương
tiện giao thông đường bộ” tôi kể câu chuyện “Xe lu và xe ca”. Qua đó trẻ sẽ biết
rõ hơn về một số phương tiện giao thông đường bộ. Từ đó phát triển vốn từ cho
trẻ.
Ví dụ: Môn tạo hình: Khi dạy trẻ "Nặn quả tròn”. Cô sẽ đọc bài thơ
“Chùm quả ngọt” để gây hứng thú vào bài cho trẻ.
Ví dụ: Hoạt động ngoài trời: Dạy trẻ kể về những sự vật hiện tượng xung
quanh cuộc sống hàng ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng... trẻ phải tự
lựa chọn nội dung, hình thức, ngôn ngữ, sắp xếp chúng theo một trình tự nhất
định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo dạng: Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo
chủ đề như: “Con hãy miêu tả hiện tượng thời tiết” trẻ sẽ tự miêu tả: trời âm u,
mây đen, gió thổi mạnh trời sắp mưa....
Qua biện pháp này tôi thấy trẻ học tích cực, phát huy được tính tư duy,
tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ. Trẻ hiểu và nắm được rất nhiều vốn từ.
* Giải pháp 2: Công tác phối kết hợp với các bậc phụ huynh:
Như chúng ta đã biết đối với trẻ mầm non môi trường tiếp xúc của trẻ chủ
yếu là gia đình và nhà trường, chính vì vậy công tác phối kết hợp giữa gia đình
và nhà trường là rất quan trọng với trẻ mầm non. Phụ huynh là nhân tố quyết
định về các điều kiện cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ rất cần thiêt có sự
ủng hộ của phụ huynh như thu gom phế liệu, tạo môi trường lớp học... Tôi đã
quan tâm tuyên truyền với phụ huynh với nhiều hình thức; thông qua góc tuyên
truyền, qua giờ đón trả trẻ thông qua các buổi họp phụ huynh tôi nêu tầm quan
trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ nói chung, đặc biệt phát triển ngôn ngữ
6
cho trẻ 3- 4 tuổi nói riêng thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học,
cho phụ huynh một số hình ảnh có trong nội dung câu chuyện, bài thơ sự gợi mở
của người lớn, để trẻ tư duy hình ảnh đó một cách lô gic, từ nội dung tư duy
giúp trẻ nói lên ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thông qua các câu hỏi mà
người lớn gợi ý, hỏi trẻ. Từ đó phụ huynh phối hợp với giáo viên để dạy trẻ tại
gia đình giúp việc tiếp thu kiến thức rèn luyện kỹ năng kể chuyện sáng tạo tốt
hơn.
 Thông qua đó các bậc phụ huynh nắm được đặc điểm, sự nhận thức của
trẻ để cùng kết hợp với cô giáo đưa ra các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp
và đạt hiệu quả.
Ví dụ: Cháu Đặng Thị Như Quỳnh trong lớp nói rất ngọng từ “Con” thành
từ “Ton”. Tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi từ đó gia đình cùng kết hợp
với cô giáo để sửa cho cháu, qua một thời gian cháu đã hoàn thiện hơn về mặt
phát âm một số từ ngọng.
 Khi tổ chức các chuyên đề “Làm quen với tác phẩm văn học” tôi đã mời
các bậc phụ huynh đến tham dự. Từ đó các bậc phụ huynh sẽ hiểu rõ hơn về đặc
điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ, cũng như tầm quan trọng của bộ môn làm
quen với tác phẩm văn học đối với sự phát triển của trẻ. Qua đó các bậc phụ
huynh sẽ thông cảm và chia sẻ với cô giáo khi tổ chức tiết dạy.
Ví dụ: Chuyên đề của lớp làm quen với tác phẩm văn học với bài thơ
“Gấu qua cầu”. Tôi đã mạnh dạn mời phụ huynh đến tham dự buổi chuyên đề.
Kết thúc buổi chuyên đề tôi đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ các bậc phụ
huynh.
Để tiết dạy làm quen với tác tác phẩm văn học được tốt, tôi sẽ cung cấp
các tài liệu có liên quan đến bài dạy để cùng phối kết hợp với các bậc phụ huynh
về nhà dạy trẻ.
Ví dụ: Dạy truyện “Gấu con chia quà” tôi sẽ pho to cho các phụ huynh
hình ảnh câu chuyện để về nhà các cháu được làm quen với câu truyện đó qua
các hình ảnh.
 Thông qua các buổi họp phụ huynh đầu năm và cuối năm. Tôi sẽ tuyên
truyền trao đổi với các bậc phụ huynh về tình hình nhận thức và sự phát triển
ngôn ngữ của từng trẻ. Từ đó cô giáo và gia đình cùng nhau đưa ra các biện
pháp phù hợp để dạy trẻ.
 Trao đổi và vận động phụ huynh dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng
nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để
trẻ nghe cho rõ ràng, cha mẹ người thân phải cố gắng phát âm đúng cho trẻ bắt
chước.
7
 Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không
nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không
chính xác. 
 Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách, những lọ
nhựa, quần áo cũ, vải vụn, đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết dạy.
Ví dụ: Khi dạy truyện “Cô bé quàng khăn đỏ”. Tôi sẽ vận động phụ
huynh ủng hộ các loại xốp, vải vụn, bìa cát tông.....để làm dối và sân khấu rối.
 Xây dựng góc tuyên truyền sao hấp dẫn, sinh động, phù hợp với trẻ, với nội
dung chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật, tết và mùa xuân, bảng tuyên truyền có
những hình ảnh về tết và mùa xuân, bài thơ, câu truyện, bài hát, đồng dao...có tổ
chức giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
 Tuyên truyền góc chơi đặc biệt góc học tập, thường thay đổi tranh ảnh để
lôi cuốn trẻ, giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón và trả trẻ trao
đổi với trẻ trong khi kể chuyện, đọc truyện, trò truyện giúp cho trẻ phát triển
ngôn ngữ mạch lạc .
* Giải pháp 3: Công tác bồi dưỡng:
Bên cạnh việc tuyên truyền tôi còn chú trọng đến công tác tự bồi dưỡng
chuyên môn cho bản thân như: Tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do phòng Giáo
dục - Đào tạo, sở Giáo dục - Đào tạo tổ chức, dự chuyên đề trường như: Làm
quen với tác phẩm văn học, giáo dục âm nhạc...Bản thân luôn học tập các bạn
đồng nghiệp, sáng tạo trong khi tổ chức giờ học, theo dõi qua các giờ dạy mẫu
trên ti vi về giáo dục mầm non. Sử dụng chương trình Powerpoint, photoshop tự
khai thác soạn giáo án điện tử, song tạo ra các trò chơi trên máy vi tính để áp
dụng dạy trẻ. Ngoài ra tôi còn làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo phục vụ các môn học
và bồi dưỡng học sinh tham dự hội thi do nhà trường và ngành tổ chức
Tôi đi sâu nghiên cứu phương pháp của từng loại bài, loại tiết, sau đó làm
đồ dùng minh họa và soạn giáo án điện tử, chụp hình ảnh đẹp làm chương trình
powerpoint để dạy trẻ. Ngoài ra tôi còn tham gia dự và dạy các tiết dạy để rút ra
những ưu điểm, khắc phục những hạn chế trong quá trình tổ chức các hoạt động
văn học cho trẻ. 
* Giải pháp 4: Sử dụng đồ dùng trực quan và tạo môi trường học tập
cho trẻ.
4.1. Sử dụng tranh minh hoạ
* Mục đích sử dụng
Sử dụng đồ dùng trực quan về tranh minh hoạ nhằm giúp trẻ dễ hình
dung, tưởng tượng ra nội dung mà trẻ đã được đọc, được nghe về nội dung của
bài thơ.
8
Ví dụ: Khi đọc thơ diễn cảm lần hai giáo viên đưa tranh minh hoạ ra kết
hợp với lời đọc của giáo viên với bài thơ “Rong và cá” nhằm minh hoạ cho từng
câu thơ, đoạn thơ minh hoạ cho từng đoạn thơ (Có cô rong xanh, đẹp như tơ
lụa). Qua quan sát trẻ dễ hiểu và nhớ lại bài thơ một cách sâu hơn, trẻ sẽ hình
dung ra hình ảnh có rong xanh đẹp và mềm mại như tơ lụa. Trẻ được đọc và
quan sát hình ảnh trên tranh sẽ khắc sâu hơn vào tâm hồn trẻ thơ.
Qua bài thơ trẻ được đọc, được nhìn vào bức tranh từ đó trẻ sẽ biết đọc và
bổ sung vào các biểu tượng hiện thực khách quan mà trẻ biết qua cuộc sống
hàng ngày.
Ví dụ: Bài thơ “Đàn gà con” 
Qua quan sát về hình ảnh trên tranh sau đó trẻ biết tự đặt tên cho bài thơ
theo ý thích của mình. Tên bài thơ mà trẻ thích đó là “Gà con đáng yêu của
bé”. Thơ là hình ảnh của tranh minh hoạ mà trẻ đã được quan sát.
Qua những hình ảnh của tranh minh hoạ đã tạo hứng thú cho trẻ tiếp thu
bài tốt. Vì ở lứa tuổi này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng. Vì vậy
trẻ đọc thơ rất cần có tranh minh hoạ để trẻ dễ hình dung và tiếp thu bài tốt hơn.
Sử dụng tranh minh hoạ phù hợp để trẻ dễ nhìn, dễ quan sát.
Khi dạy trẻ đọc thơ hay câu truyện muốn đạt kết quả cao thì giáo viên
phải biết sử dụng đồ dùng sao cho phù hợp với từng bài thơ hay câu truyện.
Tranh minh hoạ còn được sử dụng trong việc đàm thoại, giảng giải, giúp
trẻ hiểu nội dung và ghi nhớ về thơ hay truyện hơn, sử dụng trong việc cho trẻ
luyện đọc theo tranh, Trẻ biết sắp xếp tranh và đọc theo nội dung của bức tranh
từ đó trẻ nhớ trình tự bài thơ hay câu truyện hơn.
Ví dụ: Khi cô giáo đọc thơ diễn cảm lần hai. Cô giáo kết hợp cho trẻ xem
tranh minh hoạ để trẻ dễ hiểu, dễ hình dung ra nội dung mà trẻ đang muốn khám
phá.
Có thể đưa tranh minh hoạ vào nội dung bài thơ nhằm giúp trẻ hiểu nội
dung như khi dạy trẻ bài thơ “Ong và Bướm”, thì cô giáo hỏi trẻ: Bài thơ nói
về ai? Trẻ trả lời “Ong và bướm” ạ sau đó cô đưa hình ảnh Ong và Bướm ra
cho trẻ xem. Từ đó sẽ khắc sâu vào tâm hồn trẻ những hình ảnh đẹp về những
loại côn trùng.
 Khi giáo viên tổ chức cho trẻ chơi trò chơi ghép tranh qua nội dung các
bài thơ. Cần chuẩn bị những bức tranh rời minh hoạ cho nội dung của từng câu
thơ, đoạn thơ, câu thơ. Giáo viên cần tổ chức cho trẻ thi đua theo tổ, nhóm, cá
nhânĐể trẻ hứng thú dần với cá bức tranh trong bài thơ mà trẻ muốn. Từ đó
trẻ sẽ biết đặt tên cho nội dung bài thơ qua các bức tranh và trẻ sẽ hứng thú học
bài, nội dung bài thơ sẽ khắc sâu hơn.
9
Ví dụ: Cho trẻ chơi trò chơi thi đua ghép tranh bài thơ “Thăm nhà bà”.
Từ đó trẻ biết xắp xếp tranh một cách có hệ thống và biết yêu quí nhà của mình.
 Sử dụng tranh cho trẻ khi đọc thơ, muốn trẻ khắc sâu hơn được nội dung
của bài thơ thì giáo viên cần chuẩn bị cho trẻ các bức tranh minh hoạ cho nội
dung bài thơ một cách sáng tao, hấp dẫn để cho trẻ vừa đọc vừa quan sát theo
ttranh để hiểu sâu về nội dung bài thơ hơn.
Ví dụ: Khi dạy trẻ đọc bài thơ “Con cá vàng”
Giáo viên vừa đọc vừa đưa hình ảnh minh hoạ ra cho trẻ quan sát hình
ảnh để trẻ hiểu nội dung bài thơ hơn.
4.2. Sử dụng máy chiếu
* Mục đích:
Nhằm giúp trẻ chú ý đến bài học một cách hứng thú, sôi nổi, dễ hình
dung, tưởng tượng về nội dung của bài thơ. Bởi vì các hình ảnh trên máy chiếu
là có hình ảnh động, màu sắc đẹp.
Ví dụ: Khi mở máy chiếu ra thì có hình ảnh động đưa đến con mắt nhìn
của trẻ các hình ảnh động màu sắc đẹp như truyện “Bác Gấu đen và hai chú
thỏ”. Có hình ảnh về Bác Gấu đang đi trong rừngTừ đó trẻ hứng thú học một
cách tích cực nhớ bài sâu hơn.
 Từ cái nhìn các hình ảnh trên máy trẻ sẽ có ý kiến bổ sung vào các biểu
tượng mà trẻ thích với các hình ảnh trên máy, có thể trẻ tự đặt tên cho các hình
ảnh trên máy theo ý của mình
 Ví dụ: Truyện “Bác Gấu đen và hai chú thỏ” Trẻ yêu và thương Bác
Gấu. Trẻ sẽ tự đặt tên vào nội dung các hình ảnh trên máy là Bác Gấu “Đáng
thương” vì bác đã bị mưa nên phải chú mưa.
Qua các hình ảnh đó đã tạo ra cho trẻ hứng thú và nhớ tên truyện, nội
dung truyện lâu hơn, khắc sâu vào tâm hồn trẻ hơn từ đó phát triển vốn từ cho
trẻ..
Ví dụ: Bài thơ “Hoa kết trái” khi cô đọc: 
“Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng”
 Cô vừa đọc vừa đưa hình ảnh về hoa cà có màu tím, hoa mướp có màu
vàng. Các cánh hoa được cô làm hình ảnh đung đưa trông rất sinh động . Từ đó
trẻ chú ý lắng nghe cô đọc và rất hứng thú.
 Khi dùng hình ảnh minh hoạ cho bài thơ, giáo viên cần đưa vào lúc đọc
diễn cảm lần 2 và ở phần giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ.
 Ví dụ: Khi giáo viên đặt câu hỏi: Các con vừa được nghe cô đọc bài thơ
gì? (Trẻ trả lời). Sau đó cô mở hình ảnh về nội dung bài thơ để trẻ quan sát. Giáo
10
viên đặt câu hỏi đến đâu thì đưa hình ảnh nội dung câu thơ để giúp trẻ tư duy trẻ
nhớ lâu hơn
 Khi sử dụng máy chiếu giáo viên làm Slide show trên máy tính về các
hình ảnh của nội dung bài thơ. Để cho trẻ lên chơi trò chơi từ đó tạo cho trẻ
hứng thú về nội dung bài học.
4.3. Sử dụng mô hình sa bàn
 * Mục đích: Dạy trẻ bằng mô hình sa bàn qua các bài thơ, trẻ sẽ được
quan sát cô đưa hình ảnh một cách hấp dẫn qua đó trẻ hứng thú học và khắc sâu
bài thơ vào tâm hồn trẻ, trẻ được quan sát mô hình trên sa bàn trẻ sẽ dễ dàng tư
duy tưởng tượng những vấn đề mà trẻ chưa biết. 
 Ví dụ : Khi dạy trẻ bài thơ “Ong và bướm”
Khi đó cô đọc đến câu thơ nào thì cô sẽ đưa mô hình sa bàn về những con
vật đó trẻ chú ý hứng thú quan sát hình ảnh và lắng nghe cô đọc, trẻ hiểu được
nội dung bài thơ đạt hiệu quả cao.
 Qua hình thức cho trẻ quan sát mô hình sa bàn ngoài việc trẻ quan sát
nghe cô đọc thơ ra trẻ còn biết bổ xung vào các biểu tượng hiện tượng như khi
trẻ nghe và quan sát xong trẻ biết đặt cho bài thơ một tên mới theo ý tưởng của
trẻ hoặc trẻ biết bổ xung vào hình ảnh.
Ví dụ: Khi đọc bài thơ “Ong và bướm” kết hợp với mô hình sa bàn, giáo
viên vừa đọc vừa đưa mô hình ngộ nghĩnh ra cho trẻ quan sát. Hình ảnh mô
hình, sa bàn về những con côn trùng đáng yêu đó sẽ giúp trẻ nhớ trình tự nội
dung của bài thơ. Từ đó giáo viên đưa mô hình sa bàn vào phần giúp trẻ hiểu tác
phẩm một cách phù hợp để trẻ dễ hiểu và khắc sâu kiến thức qua các câu hỏi cô
đưa ra cho trẻ trả lời.
Ví dụ.
Câu hỏi 1: Các con vừa được nghe cô đọc bài thơ gì? Trẻ trả lời Ong và
Bướm ạ. Sau đó cô đưa mô hình Ong và Bướm để minh hoạ cho câu hỏi trên.
Câu hỏi 2: Con bướm trắng bay đi đâu? Trẻ trả lời đang lượn vườn hồng.
Cô đưa hình ảnh bướm trắng lượn vườn hồng ra cho trẻ quan sát.
Cứ như vậy trẻ vừa được quan sát và được trả lời câu hỏi bằng mô hình sa
bàn từ đó sẽ khắc sâu vào tâm hồn trẻ những hình ảnh đẹp trong bài thơ.
 Ngoài ra mô hình xa bàn còn có thể tổ chức cho trẻ chơi trò chơi.
Ví dụ: Khi giáo viên đọc lần 2 cô vừa đọc vừa kết hợp mô hình, sa bàn để
cho trẻ nghe và vừa quan sát nội dung bài thơ.
Khi đọc bài thơ “ong và bướm” giáo viên vừa đọc vừa đưa mô hình ong, bướm
cùng với lời đọc.
11
Qua đó khi sử dụng mô hình, sa bàn giáo viên phải chú ý đến cách sử
dụng mô hình, sa bàn sao cho phù hợp với từng nội dung, từng câu thơ một cách
phù hợp, hấp dẫn nhằm thu hút trẻ vào bài.
4.4. Sử dụng rối
* Mục đích sử dụng
Khi dạy trẻ đọc thơ giáo viên cần sử dụng rối tay có tác dụng làm cho bài
thơ sinh động, hấp dẫn hơn, vì rối tay là một loại hình nghệ thuật do con người
điều khiển biểu diễn minh hoạ theo vần bài thơ một cách linh hoạt, khi sử dụng
rối tay giáo viên cần chú ý đến lời đọc, cách biểu diễn đưa hình ảnh rối tay ra
một cách phù hợp hấp dẫn nhằm giúp trẻ hiểu nội dung sâu hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Gấu qua cầu” cô đưa ra hai con gấu đang muốn
qua cầu, cô dùng hai tay để điều khiển rối minh hoạ cho bài thơ. Giáo viên kết
hợp giữa lời đọc và làm động tác điều khiển rối. Trẻ nghe và chú ý quan sát lên
hai hình ảnh con vật đó, trẻ rất hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn so với khi đọc
thơ không có đồ dùng trực quan.
* Nội dung sử dụng
Giáo viên thường đưa rối vào phần đọc thơ lần một nhằm gây hứng thú
cho trẻ một cách sinh động.
Ví dụ: Khi giáo viên đọc bài thơ “Gấu qua cầu” giáo viên đọc kết hợp rối
để minh họa cho cả bài thơ khi đọc đến nhân vật nào thì xuất hiện nhân vật đó
ra.
 Ngoài ra giáo viên còn sử dụng rối tay vào phần giúp trẻ hiểu nội dung
bài thơ.
Ví dụ : Giáo viên đặt câu hỏi. (Hai gấu con đang làm gì)? Trẻ trả lời.
Sau đó cô đưa rối về hai con vật đó ra để minh họa.
 Bên cạnh đó giáo viên còn đưa vào phần trò chơi một cách hấp dẫn để trẻ
hứng thú chơi
Ví dụ : Cho hai bạn đóng vai hai gấu con sau đó cầm rối luồn vào tay để
thực hiện trò chơi với nhau, mỗi bạn đóng vai một chú Gấu sau đó đọc đến câu
thơ nào của bạn đó thì xuất hiện rối của nhân vật ra.
Qua việc sử dụng rối cho thấy, rối là một loại hình nghệ thuật hấp dẫn với
trẻ thơ và khắc sâu nội dung bài thơ trong tâm chí trẻ.
4.5. Sử dụng vật thật
* Mục đích sử dụng
Sử dụng vật thật là một việc rất cần thiết với trẻ mẫu giáo bé tại trường
mầm non. Trẻ ở tuổi này còn bé nên màu sắc là rất quan trọng trẻ thích được
12
nhìn các màu hoa rực rỡ, trẻ phải được quan sát, sờ mó, khàm phá. Qua đó nhằm
giúp trẻ rễ hiểu và khắc sâu nội dung bài thơ hơn
Ví dụ: Bài thơ “Hồ sen” của Nhược Thuỷ
 Qua bài thơ trẻ được quan sát về (Hoa sen) trẻ được nhận biết về màu
sắc, hương thơm của hoa, màu xanh của lá. Từ đó trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của
một trong các loài hoa.
Mục đích của việc sử dụng vật thật là rất quan trong và phải chính xác.
Qua đó trẻ được quan sát và được chi giác về các loại hoa được khắc sâu về nội
dung của bài thơ vào tâm hồn trẻ.
* Giải pháp 5: Xây dựng góc “Thư viện của bé”:
Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ đầu năm học ban
giám hiệu nhà trường phối hợp tổ chức họp phụ huynh trao đổi đóng góp, sưu
tầm các sách văn học, các hoạ báo, tạp chí, lịch cũ, nguyên liệu cho trẻ tự làm
sách để xây dựng một “Góc thư viện” mang nội dung văn học, tại “Góc thư
viện” trẻ được xem các tranh truyện, tạp chí, hoạ báo. Sau đó cô kể chuyện cho
trẻ nghe về nội dung những câu truyện như “Đôi bạn tốt, Cô bé quàng khăn đỏ”
hướng dẫn trẻ cách tri giác các tranh truyện đó dần dần trẻ có thể tự đọc. Tất
nhiên có thể lúc đầu trẻ đọc theo trí nhớ, trẻ nhớ về nội dung câu truyện cô đã kể
rồi tự kể khớp với nội dung câu chuyện mà trẻ tri giác. 
Ở góc thư viện tôi thường để các truyện minh hoạ mà trẻ đã được nghe
đặt hoặc treo không thứ tự. Sau đó yêu cầu trẻ tự xếp lại sao cho đúng theo trình
tự câu truyện, và kể lại theo nội dung các bức tranh hoặc giáo viên có thể chuẩn
bị một số tranh ghép rời và cho trẻ chơi ghép tranh. Sau đó trẻ kể về nội dung
bức tranh vừa ghép được hoặc có thể cho trẻ tô theo nét in mờ dưới mỗi nhân
vật trong truyện như: bác thơ săn trong truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” Con cáo
trong câu truyện “Cáo thỏ và gà trống” Người anh trong truyện “Cây khế”. Qua
đó trẻ phân biệt được đâu là người tốt đâu là người xấu. Hình thức này giúp trẻ
nhớ lại từng nhân vật trong mỗi truyện và nhớ lại tính cách của từng nhân vật.
 Để thu hút trẻ thích bộ môn văn học thì

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_tre_3_4_tuoi_lam.pdf