2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Hiện nay trong chương trình của sách giáo khoa Địa lí các tiết học cótỷ lệ
tiết thực hành về vẽ biểu đồ và bài tập về rèn luyện kỹ năng vẽ và nhận xét biểu
đồ sau các tiết học của học sinh trong phần câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa
là khá nhiều, Bên cạnh đó còn có một số tiết giảm tải về nội dung trong đó có cả
nội dung vẽ bểu đồ, tuy nhiên bước đầu học sinh cũng đã làm quen với biểu đồ từ
lớp dưới, sang đến lớp các lớp 7, 8 vẫn có một số dạng biểu đồ đơn giản. Điều đó
chứng tỏ rằng bộ môn Địa lí hiện nay không chỉ chú trọng đến việc cung cấp cho
học sinh những kiến thức lí thuyết mà còn giúp các em rèn luyện những kỹ năng
địa lí cần thiết, đặc biệt như kỹ năng vẽ biểu đồ, nhận xét, tóm tắt vấn đề ngắn gọn
thông qua hệ thống ngôn ngữ kí hiệu hay hình ảnh biểu tượng . Đó là sự cần thiết
cho việc hình thành lối tư duy khoa học cho cuộc sống và đối với một học sinh giỏi
môn địa lí nói riêng.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Bởi thông qua thời gian học trên lớp các em đã thể hiện được mối liên hệ giữa
những đối tượng địa lí đã học, thấy được tình hình, xu hướng phát triển của các đối
tượng địa lí, các em cũng có thể phân tích, nhận xét, phát hiện tìm tòi thêm nội
dung kiến thức mới hay liên hệ thực tế các đặc điểm tự nhiên diễn ra hàng ngày,
trên cơ sở kiến thức của bài học.
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu về việc “Một số giải pháp nâng cao chất
lượng dạy học môn địa lý ” tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè
đồng nghiệp và tổ chuyên môn để tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này
ược tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu này và có một số phương pháp để nghiên cứu như sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. 2. Phương pháp quan sát: Nhằm tìm hiểu việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ của học sinh trong giờ học. 3. Phương pháp điều tra: Nhằm đánh giá thực trạng học sinh còn yếu - kém khi khai thác các kiến thức địa lí. 4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Thông qua kết quả các bài kiểm tra có thể đánh giá chất lượng và hiệu quả các câu hỏi, nhận xét của học sinh. 4 6. CƠ SỞ, PHẠM VI, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 6.1. CƠ SỞ Với mục tiêu giáo dục : Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân tài - Bồi dưỡng nhân tài. Môn địa lí khả năng bồi dưỡng cho học sinh một khối tri thức phong phú về tự nhiên - kinh tế - xã hội và những kỹ năng kỹ xảo hết sức cần thiết trong cuộc sống,và còn có khả năng to lớn trong việc bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những nhận thức dúng đắn, khả năng hình thành cho học sinh nhân cách con người mới trong xã hội hiện đại và năng động này. Ở bậc phổ thông từ trước tới nay học sinh hay quan niệm cho rằng bộ môn địa lí là môn học phụ. Một do thiếu giáo viên dạy Địa lí nên ở nhiều trường việc phân công giáo viên dạy bộ môn khoa học xã hội sang dạy chéo ban , nên chất lượng giảng dạy thấp, học sinh thiếu hứng thú khi học bài, khi học lại chủ yếu là học vẹt để đối phó với giáo viên khi kiểm tra. Vì vậy số lượng học sinh giỏi rất ít đặc biệt là học sinh giỏi cấp thành phố và cấp quốc gia. Đa số học sinh chưa biết nhận dạng, vẽ và phân tích biểu đồ nói chung và tính và nhận xét bảng số liệu nói riêng. Là một giáo viên trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề tôi thấy rất băn khoăn trước chất lượng môn địa lí trong nhà trường do đó tôi thấy mình phải có trách nhiệm, không có gì tốt hơn là chứng minh bằng thực tiễn rằng môn Địa lí là môn học chính và học Địa lí có vai trò rất quan trọng trong đời sống hằng ngày và trong sản xuất tạo ra nhiều nhân tố học sinh giỏi. Muốn vậy tôi phải xây dựng cho mình một kế hoạch cụ thể để trong thời gian ngắn nhất đạt được kết quả cao nhất. Nhằm đưa chất lượng môn Địa lí nói riêng và chất lượng các môn học nói chung đi lên. 6.2. PHẠM VI Sử dụng chủ yếu đối với học sinh lớp 8, nhưng năm học vừa qua tôi có mở rộng phạm vi áp dụng sáng kiến cho đối tượng học sinh lớp 7và cũng đem lại nhiều kết quả thành công bất ngờ, đặc biệt đối với phương pháp “ Bài luận và thuyết trình” . Không những chỉ áp dụng cho Địa lí 8 khi sử dụng phối hợp thì các phương pháp này cũng phát huy hiệu quả cao cho địa lí các khối lớp THCS nói chung. 5 6.3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU Qua các năm dạy địa lí, tôi đã đúc kết được từ chính kinh nghiệm của mình. Năm học 2011-2012 tôi bắt đầu đưa ra ý tưởng đã tham khảo đồng nghiêp, tài liệu liên quan viết sáng kiến này. Đầu năm học 2014-2015 tôi đã hoàn thành và tiếp tục bổ sung để thực hiện áp dụng sáng kiến này trong năm học 2015 – 2016 thông qua quá trình lên lớp của mình. 6 PHẦN THỨ 2 QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHÊN CỨU 1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Với điều kiện tài liệu tham khảo của giáo viên địa lí chưa nhiều, sức hấp dẫn của bộ môn còn chưa cao, nhất là với học sinh thành phố, quan niệm coi trọng và đầu tư lớn các môn Toán, Văn, Anh và còn xem nhẹ bộ môn địa lí.Vì vậy tôi thấy cần đưa ra đề tài này và có thể áp dụng với diện rộng đối với các đồng nghiệp có cùng điều kiện. Trong các nội dung kiến thức của chương trình thường có những bảng số liệu để phản ánh sự phát triển hay sự so sánh nhằm thể hiện rõ nội dung kiến thức, vận dụng vào đó học sinh biết kết hợp các kiến thức như tính toán, vẽ, nhận xétđể trả lời các câu hỏi và bài tập địa lí. Vậy phải tạo cho học sinh những kĩ năng cơ bản để nhận biết và vận dụng vào thực tế, phải có kiến thức cũng như kĩ năng để tìm ra các mối liên hệ địa lí. 1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI Trước hết để nâng cao chất lượng giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực sư phạm vững vàng bởi vì dạy học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật phải có những phương pháp giảng dạy phù hợp, theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc tìm kiếm lĩnh hội kiến thức. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và dạy học môn Địa lý nói riêng cần có những phương pháp đặc trưng riêng. Ngoài việc lên lớp nhiều giáo viên phải không ngừng học hỏi tìm kiếm tham khảo những tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền đạt những kiến thức cho học sinh, một cách nhẹ nhàng, dể hiểu. Và sự tiếp thu của học sinh nhiều hay ít, nhanh hay chậm sẽ liên quan đến chất lượng của việc học. Khi mà học sinh lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, tự giác và tích cực thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình học tập của học sinh. 7 Vì vậy việc nâng cao chất lượng trong việc dạy và học nói chung và môn địa lý nói riêng là một phần rất quan trọng đối với người giáo viên. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà toàn ngành đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Hai không trong giáo dục”, thì chúng ta phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học , nhưng đó phải là một chất lượng thực chất, đánh giá đúng năng lực, trình độ của giáo viên cũng như khả năng tiếp thu của học sinh. 1.3. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 1.3.1 Thực trạng dạy học môn Địa lý ở trường trung học cơ sở * Ưu điểm Đa số giáo viên nắm được phương pháp dạy học đặc trưng đối với môn Địa lý. Trong quá trình dạy đã biết lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung này, kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy học phân định rõ đâu là hoạt động của thầy, đâu là hoạt động của trò. Hình thành được kiến thức chính xác, trọng tâm và đảm bảo tính hệ thống giúp học sinh dễ học và dễ hiểu. Sử dụng và kết hợp các phương tiện, thiết bị dạy học phù hợp với nội dung từng bài. Một số giáo viên thực hiện khá linh hoạt các khâu lên lớp, chững chạc tự tin trong dạy học. Tổ chức cho học sinh nhiều hình thức học tập thích hợp, điều khiển học sinh học tập tích cực chủ động, chiếm lĩnh tri thức. Chú trọng khâu củng cố, hướng dẫn bài tập về nhà, biết chú ý đến từng đối tượng học sinh, kèm cặp, giúp đỡ cho học sinh còn yếu kém tiếp thu bài còn chậm. Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến công tác đổi mới PPDH của giáo viên, tạo điều kiện để tổ bộ môn thao giảng cho từng chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Phòng GD luôn tạo điều kiện cho giáo viên có các buổi thảo luận, tập huấn, hướng dẫn, trao đổi tài liệu hay thông qua hệ thông Email mở cho các giáo viên giữa các trường học hỏi trao đổi kinh nghiệm 8 * Tồn tại Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mà người giáo viên đạt được trong quá trình giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục thì việc dạy học môn Địa lý vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục: Thường thì các tiết thao giảng thường có sự chuẩn bị công phu, chu đáo cả về thời gian lẫn phương tiện dạy học nên đạt hiệu quả cao, các tiết dạy thường xuyên thì hiệu quả còn hạn chế. Một số tiết chưa đổi mới phương pháp trong giảng dạy, vì vậy học sinh chóng chán, mệt mỏi, hiệu quả dạy và học thấp. Một số giáo viên còn cho rằng, dạy học Địa lý không cần đầu tư thời gian như các môn học khác. Một số tiết thực hành học sinh đôi khi còn chưa đạt kết quả tốt. Một số tiết Địa lý địa phương còn khó khăn trong dạy học, nguồn tài liệu, học liệu còn ít. 1.3.2 Về thực trạng học của học sinh * Ưu điểm Nhiều học sinh đã có đổi mới trong việc nhìn nhận về bộ môn Địa lý nên đã dầu tư thời gian và tài liệu (sách giáo khoa, vở bài tập, tập bản đồ, átlát, câu hỏi trắc nghiệm...). Không còn cho rằng môn Địa lý là môn học phụ chỉ cần học thuộc là được. Nhiều em có ý thức tìm tòi tài liệu tham khảo, đưa ra những ý kiến khắc phục khi chưa hiểu, chăm lo việc học bài và làm bài ở nhà. Một số em tự nguyện tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi, điều đó đã động viên tinh thần cho những giáo viên dạy môn Địa lý rất nhiều. * Nhược điểm Phần lớn học sinh và phụ huynh, đặc biệt với học sinh cuối cấp thời gian cho môn Địa lý là rất ít. Một số khác lười làm bài tập, kĩ năng đọc bản đồ, lược đồ, phân tích bảng biểu đặc biệt là kĩ năng vẽ và phân tích biểu đồ còn yếu. 9 Một số học sinh khi hoạt động nhóm và khi xây dựng bài không chịu khó suy nghĩ, thiếu chủ động còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, phụ thuộc, ỷ lại vào nhóm trưởng, vì vậy chất lượng học tập còn thấp. Từ những thực trạng trên, bản thân tôi cùng với một số đồng nghiệp xin đưa ra một số giải pháp để khắc phục và hạn chế những tồn tại với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Địa lý mà tôi trực tiếp giảng dạy. CHƯƠNG 2 NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN ĐỊA LÝ LỚP 8 Ở TRƯỜNG THCS 1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN * Phải đổi mới cách soạn bài có định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Giáo án được xem là bản kế hoạch dạy học của giáo viên, được trình bày bằng những đề mục, câu chữ ngắn gọn, rõ ràng theo một trình tự hợp lí và hình thức đặc trưng của giáo án, bao gồm cả hoạt động của giáo viên và học sinh. Vì vậy trong giáo án phải chú trọng thiết kế các hoạt động học tập của học sinh, tăng cường tổ chức các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ, chuẩn bị phiếu học tập. Tăng cường giao tiếp giữa thầy và trò, huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm của từng học sinh và các lớp để xây dựng bài soạn. Lựa chọn nội dung thích hợp: Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa Địa lý phổ thông được chọn lọc từ khối lượng tri thức khổng lồ của khoa học địa lý, đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, tính giáo dục, tính phổ thông của chương trình. Tuy nhiên, khối lượng tri thức phong phú nhưng thời gian lại có hạn (45 phút), nhưng yêu cầu đảm bảo tính khoa học, tính chính xác là cần thiết và phải đảm bảo tính vừa sức với học sinh. Vì vậy: Phải đặt ra những câu hỏi có tính kích thích sự tò mò, ham hiểu biết, có nhiều ý nghĩa về thực tế, đặt ra vấn đề học tập dưới dạng mâu thuẩn, giữa các học sinh đã biết và học sinh chưa biết. 10 Và trong năm học 2014 đến nay tôi có áp dụng thêm một phương pháp bổ sung hoàn thiện hơn cho đề tài là phương pháp : “Bài luận và thuyết trình” kiểm tra các bài luận học sinh tự xây dựng và trình bày, áp dụng cho một số bài kiến thức mở, nguồn tham khảo phong phú. Phương pháp “Bài luận và thuyết trình” Ví dụ: ở địa 7 với các bài có kiến thức mở, mang tính thời sự cập nhật như các bài 34: thực hành So sánh nền kinh tế của 3 khu vực Châu Phi, bài 60: Liên minh Châu Âu, để kích thích sự chủ động khai thác tìm hiểu kiến thức từ nhiều nguồn giáo viên cho học sinh đăng kí như một cuộc thi nhỏ những người hùng biện, yêu cầu nhóm hoặc cá nhân nào có khả năng viết một bài luận có luận cứ kèm theo mang tính thuyết phục hấp dẫn để giờ học sau về nội dung đó các con được chủ động thuyết trình, chủ động thể hiện và thi đua giữa các nhóm có cùng nội dung giống nhau, dựa trên ý kiến của hs và giáo viên sẽ xếp loại nhóm nào hay nhất sẽ trở thành những người chiến thắng. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề: Ví dụ: Bài 14 “Đông Nam Á - Đất liền và hải đảo” phần xác định vị trí địa lý của khu vực không cần đọc chi tiết các điểm cực mà nên cho học sinh nhận xét các điểm cực ấy thuộc lãnh thổ quốc gia nào? Yêu cầu học sinh phân tích ý nghĩa vị trí của địa lý đó đối với việc tạo nên khí hậu của đới nóng, kiểu nhiệt đới gió mùa của khu vực. Cần nêu câu hỏi kích thích sự tò mò của học sinh như: Vì sao gió mùa mùa hạ và gió mùa mùa đông lại trái ngược nhau? Vì sao cảnh quan rừng nhiệt đới ẩm chiếm diện tích lớn ở Đông Nam á? Vì sao sông ngòi ở miền Trung thường ngắn và dốc. Xác định nhiệm vụ nhận thức cần đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện các kĩ năng và tư duy phù hợp với nội dung bài học, làm thế nào để những học sinh có trình độ nhận thức và tư duy khác nhau đều được làm việc với sự nổ lực của bản thân. 11 Phương pháp thực nghiệm : Ví dụ: Trong bài “Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta” phải chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng so sánh sự khác biệt về khí hậu thời tiết của ba miền Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ thông qua đọc thông tin sách giáo khoa và phân tích số liệu về hai yếu tố nhiệt độ và lượng mưa của 3 trạm Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh. Để hoàn thành nội dung này, giáo viên phải tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, mỗi nhóm phân tích một miền để các học sinh có trình độ khác nhau có thể hỗ trợ cho nhau trong việc tìm ra kiến thức. Lựa chọn và sử dụng tốt các thiết bị dạy học trong quá trình lên lớp vì đây là những đồ dùng không thể thiếu trong quá trình dạy và học Địa lý nói chung và Địa lý 8 nói riêng vì nó hình thành học sinh những biểu tượng và khái niệm Địa lý, giúp học sinh dễ dàng nhận thức về mối quan hệ không gian của các sự vật và hiện tượng địa lý. Việc sử dụng hợp lý các thiết bị dạy học đặc biệt là bản đồ, lược đồ, sách giáo khoa, máy chiếu giúp rèn luyện kĩ năng địa lý cho học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh trong học tập. Sử dụng tốt bản đồ giúp học sinh xác định vị trí, hình dạng lãnh thổ, biết được các sự vật và hiện tượng địa lý mà các em không có điều kiện quan sát trực tiếp. Bởi vì đây vừa là nguồn tri thức quan trọng, vừa bổ sung khắc sâu những kiến thức ở kênh chữ của sách giáo khoa về những điểm đặc trưng của một môi trường, lãnh thổ, vì vậy việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ để lĩnh hội kiến thức là rất quan trọng bởi nó giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức nhanh chóng và lâu bền, nên nhất thiết trong giảng dạy địa lý không thể không dùng bản đồ trong việc hình thành kiến thức cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy một bài bất kỳ về “Vị trí, hình dạng của lãnh thổ” mà giáo viên không sử dụng bản đồ thì học sinh không thể nắm được các điểm cực Bắc, cực Nam, cực Tây, cực Đông của lãnh thổ đó và không biết hình dạng của lãnh thổ đó như thế nào, tiếp giáp với những quốc gia, khu vực nào... Tuy nhiên, chúng ta không nên sử dụng quá nhiều bản đồ cho một tiết dạy, phải lựa chọn bản đồ nào phù hợp nhất, sử dụng trong những thời điểm thích hợp nhất và có thể cung cấp cho các em những hình ảnh thì mới đạt được hiệu quả cao. 12 Phương pháp trải nghiệm ảo -Tạo hứng thú và động lực học tập Tạo nhu cầu hứng thú nhận thức không chỉ được thực hiện ngay lúc vào bài mà phải kéo dài trong suốt cả tiết học. Khi bắt đàu bài học, giáo viên cần có sự định hướng nội dung học tập cho học sinh, gợi ý cho hs nếu mình được là một trong những yếu tố trong sự việc, bối cảnh đó mình sẽ thấy thế nào, mình sẽ làm gì. Việc định hướng sẽ có hiệu quả cao hơn nếu như tạo được hứng thú học tập của học sinh, việc này không chỉ sử dụng khi bắt đầu bài mới mà ở các mục kế tiếp nhau, giáo viên cần có sự chuyển ý một cách thích hợp, có như vậy mới tạo ra không khí thuận lợi trong việc lĩnh hội kiến thức cho học sinh. Xác định các hình thức tổ chức cho dạy học Tổ chức các hoạt động học tập của học sinh phù hợp với nội dung từng bài. Đối với những nội dung thích hợp, vừa sức, giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân với sách giáo khoa lược đồ và bảng biểu. Đối với những nội dung dễ gây ra nhiều ý kiến khác nhau cần tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm Đối với những nội dung mà học sinh không có khả năng tự học (những nội dung phức tạp, khó...) và mất nhiều thời gian nên tổ chức cho học sinh học theo lớp. Các hình thức dạy học cần phải được phối hợp chặt chẽ với nhau trong một tiết lên lớp làm cho hình thức hoạt động nhận thức của học sinh đa dạng, các em vừa được học thầy, học bạn, vừa có sự nỗ lực bản thân. Vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh Vấn đề này phải được nghiên cứu, thay đổi để phù hợp với việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tất cả học sinh đều được tham gia vào việc tự đánh giá lẫn nhau, như vậy bắt buộc học sinh phải có sự chuẩn bị kiến thức và bài tập để đánh giá bạn được chính xác. Trong quá trình dạy cần thường xuyên tiến hành kiểm tra việc học tập của học sinh, công việc này được tiến hành trong mọi khâu của quá trình dạy học từ kiểm tra bài cũ, kiểm tra trong khi học bài mới... nhằm giúp học sinh có ý thức tự giác suy nghĩ trong học tập. 13 Ngoài ra việc kiểm tra định kì cần bao quát nội dung đã học, cần quan tâm đến kĩ năng và khả năng tư duy học tập của học sinh để hạn chế kiểm tra các kiến thức kiểu ghi nhớ máy móc. Đặc biệt hiện nay chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa tới đối tượng học sinh yếu kém . Điều đó phải được thể hiện rõ trong từng bài soạn của giáo viên . Giáo viên phải nắm từng đối tượng của học sinh, đưa ra những câu hỏi dễ để các em yếu kém có thể trả lời được – ví dụ câu hỏi: Quốc gia nào có số dân đông nhất trên thế giới? hoặc Em hãy kể tên các tài nguyên khoáng sản của việt nam? ở địa phương em có những loại tài nguyên khoáng sản nào?... Nhất là trong các hoạt động nhóm, giáo viên phải có sự hướng dẫn để những học sinh yếu kém có thể tham gia đóng góp ý kiến của mình đồng thời khen thưởng kịp thời khi học sinh trả lời chính xác động viên các em, giúp các em hứng thú hơn trong việc học. 2. ĐỐI VỚI HỌC SINH Học sinh phải thực sự biết đổi mới phương pháp học để phù hợp với cách dạy mới của giáo viên. Biết dùng lý luận và kiến thức lý thuyết để giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế. Chủ động tích cực trong các hình thức học tập do giáo viên hướng dẫn, tự mình tìm ra kiến thức đúng. Biết sử dụng sách giáo khoa để suy luận và tự khám phá, tìm tòi qua các câu hỏi đàm thoại gợi mở của giáo viên. Tích cực làm bài tập do giáo viên hướng dẫn ở vở bài tập và tập bản đồ. Phải thực sự đầu tư thời gian hợp lý cho việc chuẩn bị bài cũ và bài mới mà giáo viên giao cho với hiệu quả cao. Có thói quen quan sát, theo dõi thu thập các thông tin địa lý qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, tranh ảnh, truyền hình. Phải rèn luyện các kĩ năng địa lý cơ bản: + Kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, lược đồ. Xác định vị trí sự phân bố của các sự vật, hiện tượng địa lý trê bản đồ. Nhận xét được mối quan hệ giữa các thành 14 phần tự nhiên, giữa tự nhiên với sự phát triễn kinh tế xã hội thông qua việc so sánh, đối chiếu các bản đồ với nhau + Đọc, phân tích và nhận xét các biểu đồ địa lý như biểu đồ nhiệt ẩm thể hiện các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa; biểu đồ sự phát triển dân số, biểu đồ thể hiện diện tích rừng... + Biết cách phân tích, nhận xét các lát cắt địa hình. Phân tích các số liệu thống kê, các tranh ảnh để khai thác kiến thức. + Kĩ năng vẽ các loại biểu đồ phổ biến như biểu đồ hình tròn, biểu đồ hình cột... chính xác thẩm mĩ. + Khả năng tự học, tự tìm hiểu, sưu tầm tài liệu để xây dựng một bài tiểu luận về kiến thức giáo viên giao, có thể xây dựng dưới dạng chùm hình ảnh và lời bình hay những bài thuyết trình Powerpoint. Tự giác, trung thực trong làm bài kiểm tra, hình thành thói quen tự lực làm bài không phụ thuộc vào tài liệu quay cóp, có những quan điển cá nhân và sáng tạo trong việc trình bay, thể hiện kiến thức của bản thân nhưng vẫn đảm bảo trên nền kiến thức chung. 3. KẾT QUẢ Việc đổi mới phương pháp dạy học đã làm cho phần lớn học sinh thực sự quen với cách học mới, chủ động hơn trong việc tự mình khám phá, xây dựng và chiếm lĩnh tri thức và không còn coi môn Địa lý là môn học không cần trí tuệ như trước đây nữa. Bên cạnh việc ý thức, tự giác trong học tập, học sinh cũng đã tự trang bị cho mình nhiều phương tiện học tập, đầu tư thời gian học tập thích hợp cho việc học Địa lý do vậy chất lượng học tập bộ môn có bước chuyển biến rõ rệt. 15 CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Qua thực tiễn dạy học trong thời gian qua và bằng việc áp dụng các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và
Tài liệu đính kèm: