A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Việc phát triển tiếng Việt và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt có thể
nói là một công việc lớn đặt ra cho tất cả chúng ta. Môn Tiếng Việt ở bậc tiểu
học có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ hình thành và phát triển các kĩ năng:
nghe, nói, đọc, viết cho học sinh mà môn Tiếng Việt còn góp phần cùng các
môn học khác phát triển tư duy, hình thành cho các em nhu cầu thưởng thức cái
đẹp, khả năng xúc cảm trước cái đẹp, trước buồn- vui - yêu- ghét của con người.
Kể chuyện là một phân môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Thông qua các giờ học kể chuyện, các em có cơ hội phát triển ngôn
ngữ, mở rộng vốn văn học, phát huy trí tưởng tượng cũng như những ước mơ,
hoài bão về cuộc sống. Kể chuyện rất lí thú, hấp dẫn được trải dài từ lớp 1 đến
lớp 5 và thường được các em chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng.
Bởi nó đã thay đổi bầu không khí của lớp học giúp các em giải toả căng thẳng
sau những tiết học khác, để các em có tâm lí tốt hơn cho các giờ học sau nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học. Phân môn Kể chuyện còn giáo dục cho các em tấm
lòng yêu quê hương đất nước, yêu thế giới xung quanh, giáo dục lòng yêu cái
tốt, cái đẹp, biết căm thù cái xấu, cái ác, có tấm lòng đầy vị tha, góp phần hình
thành nhân cách con người của các em.
Kể chuyện không chỉ là một phương tiện có hiệu quả mạnh mẽ trong việc
giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ mà nó còn có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến
sự phát triển ngôn ngữ cho HS. Kể chuyện giúp HS rèn kĩ năng nói, phát triển
ngôn ngữ mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là phương tiện vạn năng đặc sắc, trọn
vẹn và có hiệu quả cao trong giao tiếp
g lại đói nghèo, lạc hậu, vì hạnh phúc của nhân dân + Kể về những người biết sống đẹp, biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh + Kể về những tấm gương sống, làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh + Kể về những tấm gương sống, làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh + Kể về những người đã góp sức mình bảo vệ trật tự, an ninh + Kể về truyền thống hiếu học hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam + Kể về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài 6 + Kể về gia đình, nhà trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ em thực hiện bổn phận với gia đình, nhà trường và xã hội c) Bài tập kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia : gồm 10 tiết kể chuyện. Đó là các đề bài : + Kể việc làm tốt góp phần xây dựng quê hương đất nước + Kể một câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước + Kể một về một lần em được đi thăm cảnh đẹp ở địa phương em hoặc ở nơi khác + Kể một việc làm tốt của em hoặc của những người xung quanh để bảo vệ môi trường + Kể về một buổi sinh hoạt đầm ấm trong gia đình 1.1.4. Căn cứ vào đặc điểm tâm - sinh lý của học sinh tiểu học 1.1.4.1. Tri giác Các em thường tri giác những gì phù hợp với nhu cầu, những gì thường được gặp, được hướng dẫn. Tri giác của các em còn gắn liền với cảm xúc. Điều này cho thấy sự cần thiết hướng dẫn học sinh nghe và kể chuyện thường xuyên. Những câu chuyện hay, lời kể hấp dẫn, sinh động được các em tri giác tốt hơn, học sinh sẽ hứng thú, yêu thích học Kể chuyện. 1.1.4.2. Khả năng chú ý Học sinh ở tiểu học chú ý có chủ định bắt đầu ổn định. Các phẩm chất ý chí (độc lập, kiên trì, tự chủ) bắt đầu hình thành. Học sinh có kĩ năng phân phối chú ý và hướng chú ý vào nội dung cơ bản của bài học. Chính đặc điểm này cho phép giáo viên rèn luyện học sinh thực hiện thành thục các thao tác, các kĩ năng nói, kĩ năng nghe trong dạy học kể chuyện. Vì vậy, giáo viên có thể phức tạp hóa dần dần nhiệm vụ nhận thức cho học sinh. 1.1.4.3. Trí nhớ Ở giai đoạn này, trí nhớ của các em là trí nhớ không chủ định. Nó vẫn hình thành và phát triển mạnh. Nhưng ghi nhớ ý nghĩa đang bắt đầu chiếm ưu thế. Vì vậy, trong dạy học kể chuyện, giáo viên cần chủ động hình thành cho học sinh phương pháp ghi nhớ nội dung câu chuyện theo điểm tựa, nối liền điểm tựa tạo ra dàn ý ghi nhớ nội dung câu chuyện hoặc phân chia nội dung câu chuyện thành các đoạn, đặt tên cho các đoạn hoặc đặt ra các câu hỏi về nhân vật, tình huống, cốt truyện để học sinh trả lời và ghi nhớ. Ở tuổi này, trí nhớ từ ngữ logic phát triển hơn trí nhớ trực quan. Cho nên, các em có thể ghi nhớ được nhiều câu chuyện tự tìm được bằng nhiều hình thức trong đó có hình thức nói thầm để ghi nhớ câu chuyện là chủ yếu. 1.1.4.4. Tưởng tượng Tưởng tượng của HS cuối bậc Tiểu học hoàn chỉnh hơn về kết cấu logic. Sự tạo ra các hình ảnh mới trong tưởng tượng bằng cách cụ thể hóa nhân vật, nhập vai vào nhân vật sẽ giúp các em khắc sâu nhân vật và nội dung câu 7 chuyện từ đó bộc lộ tình cảm tự nhiên với nhân vật trong truyện, giúp cho việc kể sinh động hơn.. 1.1.4.5. Tư duy Tư duy trừu tượng, khái quát hóa đang dần chiếm ưu thế. Học sinh biết dựa vào các dấu hiệu bản chất của đối tượng để rút ra nội dung, ý nghĩa của câu chuyện. 1.1.4.6. Ngôn ngữ Lên tiểu học, hầu hết các em có ngôn ngữ nói thành thạo, ngôn ngữ viết đang hoàn thiện và bắt đầu hướng tới hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lí tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được thể hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ, ta có thể đánh giá sự phát triển trí tuệ của trẻ. Ngôn ngữ của học sinh tiểu học đã dần ổn định giúp học sinh có thể sử dụng ngôn ngữ tham gia vào các hoạt động, các nhiệm vụ học tập mà ít gặp khó khăn trong việc bày tỏ quan điểm, trình bày ý kiến của mình. Đặc biệt, việc sử dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe đã đọc là cơ hội để các em phát triển ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ giao tiếp của HS. Tóm lại, với những đặc điểm về tâm lí của học sinh tiểu học, thì việc rèn kĩ năng kể chuyện cho các em là phù hợp, có thể thực hiện để mang lại hiệu quả tốt, giúp các em hình thành được các kĩ năng tương ứng và có khả năng vận dụng vào trong chính cuộc sống của các em. 1.2. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Kĩ năng Là khả năng vận dụng những kiến thức, hiểu biết của con người để thực hiện một việc gì đó, có thể là việc nghề nghiệp mang tính kỹ thuật, chuyên môn hoặc việc liên quan cảm xúc, sinh tồn, giao tiếp, Nói một cách dễ hiểu nhất, kỹ năng chính là khả năng/năng lực thực hiện thành thục một hoặc một số hành động của một người với mục đích là tạo ra kết quả như mong đợi. 1.2.2. Kể chuyện Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên) giải thích: Kể là nói rõ đầu đuôi và nêu ví dụ: kể chuyện cổ tích. Hoạt động kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện với một chuỗi các 8 sự việc có đầu có cuối liên quan đến một hay một số nhân vật bằng lời kể một cách hấp dẫn, sáng tạo, giàu ngữ điệu và có sự phối hợp diễn xuất qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người kể một cách tự nhiên nhằm truyền cảm đến người nghe. 1.2.3. Định hướng phát triển năng lực Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Định hướng phát triển năng lực là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Kết luận chương 1 Việc rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh lớp 5 là nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên. Việc rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh luôn là một việc làm cần thiết để giúp các em hình thành, phát triển và hoàn thiện về nhân cách. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRONG NHÀ TRƯỜNG 2.1. Thực trạng nhà trường 2.1.1. Thuận lợi Ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao kịp thời từng môn học ở tất cả các khối lớp. Đặc biệt chú trọng công tác rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh cho học sinh. Đại đa số giáo viên nhà trường nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ tâm huyết với nghề dạy học, luôn coi trọng đổi mới phương pháp dạy học. Nhà trường đã mua thêm nhiều sách tham khảo, sách nâng cao phục vụ cho việc dạy học môn Tiếng Việt nói chung và rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh nói riêng. 2.1.2. Khó khăn Đối với giáo viên: Trong đội ngũ giáo viên vẫn còn một số giáo viên chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực, chưa đào sâu suy nghĩ bài dạy, nhiều giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy nhất là phần dạy – học kể chuyện nên khi giảng dạy còn gặp những khó khăn nhất định. Đa số giáo viên chỉ kể chuyện học sinh và yêu 9 cầu học sinh kể lại được câu chuyện mà giáo viên đã kể. Còn một số giáo viên chưa chú ý đến bồi dưỡng và tự bồi dưỡng kĩ năng kể chuyện cho chính mình. Đối với học sinh: Từ thực tế khảo sát học sinh cho thấy học sinh thích nghe cô giáo kể chuyện nhưng kĩ năng kể chuyện lại chưa tốt, nhất là hai dạng bài kể chuyện đã nghe, đã đọc và kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Nhiều em thuộc truyện, kể chuyện khá trôi trảy nhưng chưa tự tin, mạnh dạn trước đám đông, kể chưa hay, chưa hấp dẫn người nghe. 2.2. Nguyên nhân thực trạng 2.2.1. Nguyên nhân khách quan Nhà trường có nhiều giáo viên trẻ. Bản thân giáo viên chưa nhận thức đúng về vai trò của việc rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Một số giáo viên chưa nắm chắc phương pháp dạy – học phân môn Kể chuyện và các biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh. Khả năng đọc để nhớ nội dung và hiểu ý nghĩa câu chuyện của học sinh còn yếu. Vốn sống của các em còn quá ít, 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Một số ít giáo viên chưa cập nhật với sự đổi mới, chưa thực sự ham học hỏi, đôi khi còn ngại khó, ngại khổ. Nhiều giáo viên chưa có kĩ năng kể chuyện hay, hấp dẫn học sinh, chưa biết đặt câu hỏi khai thác nội dung câu chuyện theo hướng phát huy năng lực học sinh và chưa có kinh nghiệm rèn kĩ năng kể chuyện cho các em. Một số giáo viên tự thỏa mãn, tự cho mình là giỏi, mất đi ý thức tự bồi dưỡng và thiếu quan tâm đến nâng cao chuyên môn. Các em học sinh chưa dành thời gian nhiều cho việc rèn các kĩ năng, kĩ năng kể chuyện của các em còn nhiều hạn chế. Kết luận chương 2 Kể chuyện là một phân môn lý thú, hấp dẫn, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình giáo dục ở trường Tiểu học đặc biệt là đối với học sinh lớp 5. Phân môn Kể chuyện góp phần bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi đạo đức vốn sống, vốn văn học, phát triển tư duy và ngôn ngữ, hình thành các kĩ năng cơ bản cho hoạc sinh. Học sinh tiểu học rất thích nghe và kể chuyện, đó là một nhu cầu không thể thiếu với các em bởi lẽ những câu chuyện sẽ giúp các em phát huy tối đa trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo và những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh trong tâm hồn. 10 Qua khảo sát thực trạng của việc dạy học Kể chuyện ở lớp 5 trường Tiếu học tôi công tác, chúng tôi nhận thấy giáo viên có những thuận lợi sau : Được trang bị đầy đủ đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy, học sinh có tinh thần hợp tác, ham học hỏi, ý thức tự giác của học sinh cao. Tuy nhiên, giáo viên cũng găp không ít khó khăn đó là: giáo viên chưa tìm ra biện pháp dạy học hợp lý đối với phân môn. Việc sử dụng kết hợp các hành động phi ngôn ngữ cũng như đồ dùng trực quan của giáo viên vào kể câu chuyện còn hạn chế. Từ thực trạng trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và xây dựng một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 3.1. Biện pháp 1: Rèn kĩ năng nghe và ghi nhớ truyện cho học sinh 3.1.1. Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh có kĩ năng nghe và ghi nhớ nội dung, các chi tiết trong truyện. Thông qua lời kể của giáo viên và đồ dùng dạy học, học sinh có khả năng nghe, quan sát để ghi nhớ câu chuyện cũng như hình thành kĩ năng kể chuyện. 3.1.2. Cách thực hiện: - Giáo viên phải thuộc truyện, hiểu truyện làm cho lời kể của mình cũng là phương tiện trực quan, in được dấu ấn trong lòng học sinh. - Giáo viên phải kết hợp lời kể với các phương tiện trực quan khác để học sinh dễ dàng ghi nhớ. - Giáo viên kể lần 1 không dùng tranh, nhưng ở lần 2 và 3 dùng tranh, nên kể chậm lại thể hiện nội dung của từng tranh. - Khi kể kết hợp ghi các mốc thời gian, tên nhân vật khó nhớ ra bảng. Ví dụ: Khi kể chuyện: “Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai” – Giáo viên kể xong lần 1, cần hỏi học sinh về các nhân vật và ghi nhanh ở bảng các mốc thời gian xảy ra câu chuyện: Ngày 16/3/1968; Nhân vật: Mai - cơ, Tôm - xơn, Côn - bơn, An - đrê - ốt - ta, Hơ - bớt, Rô - nan. - Trong quá trình kể giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi gây tò mò, gây sự chú ý để cuốn hút học sinh. 11 Ví dụ: Trong câu chuyện “Người đi săn và con nai”: Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh dự đoán kết thúc câu chuyện người đi săn có bắn con nai không? Chuyện gì xảy ra sau đó? - Trong lần kể thứ 2 và thứ 3 nếu thấy học sinh đã nhớ truyện cũng có thể cho học sinh kể tiếp lời của mình hoặc một đoạn, sau đó nhận xét. - Không khí của lớp học cũng là yếu tố quan trọng để tạo nên thành công. Khi dạy tiết kể chuyện giáo viên chú ý tạo không khí thoải mái, ổn định để học sinh tiếp thu tốt câu chuyện. 3.1.3. Kết quả: Giáo viên đã biết cách kể chuyện hấp dẫn, từ đó lôi cuốn các em vào câu chuyện, giúp các em tập trung nghe, hiểu và ghi nhớ truyện. 3.2. Biện pháp 2:Hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tìm được câu chuyện để kể (với bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc; đã chứng kiến hoặc tham gia) 3.2.1. Mục đích của biện pháp: Giúp cho học sinh ở mọi trình độ có thể tìm được truyện để tìm được câu chuyện để kể. 3.2.2. Cách thực hiện: Trong tiết dạy – học Kể chuyện, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho tiết Kể chuyện tuần sau. - Với loại bài kể chuyện đã nghe, đã đọc, học sinh phải sưu tầm truyện, giáo viên cũng có thể giúp học sinh tìm những câu chuyện phù hợp với chủ điểm theo các gợi ý. Ví dụ: Tiết Kể chuyện tuần 12. Đề bài: Hãy kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc có nội dung bảo vệ môi trường. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm truyện theo các gợi ý: + Đọc lại đoạn văn ở bài tập 1, tiết Luyện từ và câu (Tuần 12) để nắm được các yếu tố tạo thành môi trường. + Nhớ lại những truyện đã học về bảo vệ cây cối, loài vật, chống thiên tai để hiểu nội dung bảo vệ môi trường: Chim sơn ca và bông cúc trắng, Chiếc rễ đa tròn (Tiếng Việt 2, tập hai); Người đi săn và con vượn, Cóc kiện Trời (Tiếng Việt 3, tập hai). + Tìm thêm các truyện có nội dung bảo vệ môi trường trong sách Truyện đọc 5, Báo Thiếu niên, Nhi đồng, Khoa học khám phá, ... hay trong đời sống hàng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể). - Với loại bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, yêu cầu học sinh kể những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết, đã thấy, cũng có khi chính các em là nhân vật của câu chuyện. Các 12 bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia rất đa dạng vì chúng gắn với các chủ điểm của SGK. Để có thể tìm được các câu chuyện để kể lại, giáo viên cần rèn cho các em thói quen quan sát, ghi nhớ, xây dựng cốt truyện. Ví dụ: Tiết Kể chuyện tuần 13. Đề bài: Kể một việc làm tốt của em hoặc của những người xung quanh để bảo vệ môi trường. Giáo viên gợi ý: Những việc làm tốt bảo vệ môi trường là: + Giữ vệ sinh nhà cửa, trường lớp, đường phố (thường xuyên quét dọn nhà cửa, lau bàn ghế sạch sẽ, tham gia làm vệ sinh ở xóm làng, đường phố ; không xả rác bừa bãi ; giữ sạch nguồn nước,...) + Trồng cây, chăm sóc cây. + Bảo vệ, chăm sóc các loài vật có ích. + Khuyên bảo bạn bè, em nhỏ, người xung quanh giữ vệ sinh chung, không bẻ cành, hái hoa ở nơi cộng cộng, không bắn chim,... + Phát hiện và ngăn chặn các hành vi phá hoại môi trường. * Lưu ý: + Đối với kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc, giáo viên nên giúp các em tìm truyện, giới thiệu tên truyện hoặc cho các em mượn truyện. (Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm truyện trong các tiết hướng dẫn hoạt động tại thư viện nhà trường) + Đối với kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, học sinh đã bắt đầu được làm quen từ lớp 3 và được chú ý rèn luyện ở lớp 4, nhưng dù sao đây vẫn là một kiểu bài tập khó. Do đó, giáo viên không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Học sinh có thể kể những câu chuyện các em mắt thấy tai nghe trong thực tế hoặc được chứng kiến trên truyền hình. Điều cốt yếu là câu chuyện đúng chủ điểm, câu chuyện không cần nhiều tình tiết phức tạp. + Để thực hiện nhiệm vụ kể chuyện, học sinh cần chuẩn bị trước nội dung câu chuyện sẽ kể nhưng không cần lập dàn ý quá chi tiết, dẫn đến chỗ phụ thuộc vào dàn ý, hạn chế sự phát triển kĩ năng nói. Giáo viên cũng cần tránh xu hướng dạy tiết kể chuyện chứng kiến hoặc tham gia như dạy tập làm văn. 3.2.3. Kết quả: Học sinh chuẩn bị được truyện để kể trước lớp giúp các em tự tin hơn, các em hào hứng muốn kể câu chuyện của mình cho các bạn cùng nghe. 13 3.3. Biện pháp 3: Thực hiện các bước rèn luyện kĩ năng kể chuyện cho học sinh 3.3.1. Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh rèn luyện, nâng cao kĩ năng kể chuyện từ việc kể được một số chi tiết, một đoạn đến kể toàn bộ câu chuyện; từ việc kể đúng, kể trôi chảy đến kể diễn cảm, hấp dẫn người nghe và cao nhất đó là kể sáng tạo. 3.3.2. Cách thực hiện a. Tập cho học sinh kể một số chi tiết hoặc từng đoạn của câu chuyện * Bước chuẩn bị - Giúp học sinh nắm vững, hiểu và có cảm xúc với câu chuyện sắp kể. Nhờ vậy, các em tụ tin, mạnh dạn và chủ động. Đây là một việc làm quan trọng quyết định sự thành công của học sinh khi tham gia kể chuyện. - Tạo cho học sinh tâm thế muốn được kể chuyện cho cô, cho bạn nghe, không ngượng ngùng, rụt rè. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh tiểu học vì các em còn nhỏ, chưa quen giao tiếp với đám đông, thiếu tự tin. Lời động viên của cô giáo, không khí thi đua giữa các tổ, nhóm, sự trang trí hoặc bố trí lớp học gợi không khí câu chuyện... là những cách thức có hiệu quả tạo tâm thế mong muốn được tham gia kể chuyện trong tiết học. * Bước tập kể từng phần câu chuyện Học sinh tiểu học còn nhỏ tuổi, khả năng ghi nhớ, khả năng chú ý còn có những hạn chế. Vì thế lúc đầu nên để các em tập kể từng phần câu chuyện. Tập kể một số chi tiết, tình tiết quan trọng, tập kể từng đoạn trong câu chuyện. Khi tập kể từng đoạn, do dung lượng ngắn, học sinh có điều kiện tập vận dụng các kĩ năng thích hợp với nội dung đoạn truyện, giáo viên dành thời gian giúp học sinh luyện tập kĩ năng này. Đối với giai đoạn đầu, giáo viên nên hướng dẫn các em cách nhấn giọng, đổi giọng, kéo dài giọng khi kể, hướng dẫn các em một vài động tác hoặc điệu bộ (nét mặt, cử chỉ của tay,...) minh họa cho diễn biến của đoạn truyện. Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em luyện cách mở đầu câu chuyện, luyện cách ngừng nghỉ một cách nghệ thuật để gây hứng thú (hồi hộp, mong chờ...) cho người nghe; luyện cách sử dụng các hình ảnh minh họa, các đồ dùng dạy học. Khi dạy học sinh kể từng đoạn, giáo viên không gò ép các em rập khuôn theo cách kể của thầy cô, nên để các em tự kể theo giọng điệu riêng, theo cách thể hiện riêng, xuất phát từ tình cảm, cách hiểu của mình. Chỉ khi nào các em quên hoặc không kể được, gióa viên mới gợi ý và hướng dẫn thêm. b. Tập cho học sinh kể toàn bộ câu chuyện Đây là bước luyện tập ở mức độ cao. So với kể từng đoạn, việc kể toàn 14 truyện đòi hỏi người kể phải có trí nhớ tốt, chủ động rong cách kể. Song nó cũng cho phép người kể sáng tạo và thể hiện khả năng của mình. Ở bước này, học sinh cần luyện tập theo cả hai yêu cầu: kể đúng và kể hay. Để kể đúng, các em cần nắm vững nội dung câu chuyện. Để kể hay, các em phải luyện tập để đạt trình độ thành thục hơn. c. Tập cho học sinh kể sáng tạo - Kể chuyện sáng tạo có nhiều mức độ khác nhau, gắn với những kiểu bài tập khác nhau nhưng bản chất của kể chuyện sáng tạo không phải là kể khác nguyên văn mà là kể tự nhiên như sống với câu chuyện, kể bằng ngôn ngữ, giọng điệu của mình, thể hiện được cảm nhận của mình về câu chuyện đó. - Khi kể tự nhiên, hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của mình, trẻ có thể thêm vào câu chuyện một số câu chữ của mình nhưng cũng có hể chỉ diễn lại nguyên văn câu chuyện đã thuộc lòng. Giáo viên cần tránh hiểu máy móc dẫn đến sai lầm là khuyến khích học sinh thay những từ chốt (đã được tác giả lựa chọn rất chính xác) bằng những từ ngữ khác. - Chúng ta cũng không coi việc học sinh kể thuộc lòng câu chuyện, kể chính xác từng câu chữ theo văn bản truyện là thiếu sáng tạo. Chỉ trong trường hợp học sinh kể như đọc văn bản, vừa kể, vừa cố nhớ lại một cách máy móc từng câu chữ trong văn bản, giáo viên mới nhận xét kể như thế chưa tốt. - Yêu cầu cao nhất về kể chuyện sáng tạo thường thể hiện ở việc kể lại những câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Đây là loại bài tập mới và khó. Giáo viên cần lưu ý học sinh: + Không cần tìm những câ
Tài liệu đính kèm: