Để học sinh có năng lực và kĩ năng đọc hiểu tốt, phải dạy đọc hiểu một
cách có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt đối với học sinh
lớp 1 - lớp đầu cấp, việc dạy đọc hiểu cho các em thật vô cùng quan trọng bởi
các em có đọc hiểu tốt ở lớp 1 thì khi học lên các lớp tiếp theo, các em mới nắm
bắt được những yêu cầu cao hơn của việc học môn Tập đọc.
Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách rèn kĩ2/22
năng đọc hiểu cho học sinh lớp mình. Việc dạy cho các em biết đọc chữ đã là
khó, dạy cho các em biết đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc
đúng ngữ điệu, đọc ngắt nghỉ hơi trong văn bản thơ, văn là cả một quá trình
phấn đấu không ngừng nghỉ của cả thầy và trò. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
giúp các em hiểu văn bản được đọc, nhất là làm thế nào để phối hợp đọc thành
tiếng và đọc hiểu, làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính
cuộc sống của các em. Đó là những trăn trở của tôi nói riêng và của giáo viên
nói chung trong mỗi giờ dạy Tập đọc. Dựa vào kinh nghiệm của bản thân, của
Ban giám hiệu, của đồng nghiệp tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp Một trong các tiết
Tập đọc
mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp Một trong các tiết Tập đọc”. 6/22 CHƯƠNG III. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ 1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch, nội dung bài dạy 1.1. Nghiên cứu chương trình tổng thể và các bài tập đọc của sách giáo khoa: Việc nghiên cứu này đòi hỏi người giáo viên phải nắm được mục tiêu dạy môn học và phân môn; nắm được cấu trúc tổng thể và đặc điểm cấu trúc chương trình, sách giáo khoa tập đọc mà mình đang thực hiện; xác định được vị trí của bài tập đọc sẽ dạy trong hệ thống chương trình. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập hai, phần Luyện tập tổng hợp gồm 13 tuần, xoay quanh ba chủ điểm: Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên - Đất nước Mỗi chủ điểm học trong 1 tuần. Sau 3 tuần sẽ kết thúc một vòng 3 chủ điểm. Tiếp đó, các chủ điểm lần lượt được nhắc lại nhưng có sự phát triển, mở rộng hoặc đổi mới. Mỗi chủ điểm được lặp lại 4 lần. Tuần cuối cùng dành cho Ôn tập – kiểm tra. Mỗi tuần có 3 bài đọc. Mỗi bài được học trong 2 tiết. Nhiệm vụ chính là dạy học sinh luyện đọc thành tiếng và đọc hiểu. Các văn bản đọc là những văn bản ngắn, là những bài văn hay bài thơ phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh lớp Một : thú vị, hấp dẫn, bổ ích, gần gũi với thế giới hồn nhiên, tươi tắn của trẻ; có tác dụng giúp trẻ nhờ tiếp xúc với một thế giới mới qua sách mà có thêm hiểu biết, nâng cao hơn về tình cảm, đáng yêu, cởi mở, thông minh và tự tin hơn. Trên cơ sở dạy học sinh đọc đúng và hiểu các văn bản phù hợp với lứa tuổi, giáo viên giúp các em bước đầu mở tầm nhìn rộng ra thế giới xung quanh, rung cảm trước cái đẹp, trước những buồn, vui, yêu, ghét của con người. Đồng thời hình thành ở mức đơn giản trong các em những nhận thức, tình cảm và thái độ đúng đắn của con người: biết phân biệt đẹp – xấu, thiện – ác, đúng – sai; biết yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô, bạn bè, quê hương, đất nước; có lòng nhân ái, vị tha; có ý thức về bổn phận với ông bà, cha mẹ, người thân; biết tôn trọng nội quy, bảo vệ của công, bảo vệ môi trường sống; sống hồn nhiên, tự tin, trung thực Các văn bản khá đa dạng về phong cách: phong cách nghệ thuật, khoa học và nhật dụng. Trong đó, văn bản nghệ thuật (và có tính nghệ thuật) chiếm tỉ lệ khoảng 70% nhằm đảm bảo mục đích dạy tiếng đồng thời với dạy văn, phát triển khả năng giao tiếp kết hợp với bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, giáo dục đạo đức, cung cấp cho trẻ những hiểu biết cần thiết về thế giới các em đang sống. Các văn bản khoa học (Đầm sen, Chú công, Anh hùng biển cả, ); văn bản nhật dụng (Cái nhãn vở, Bác đưa thư, Người bạn tốt ) giúp trẻ biết đọc đa dạng các kiểu loại văn bản; mở rộng hiểu biết về thế giới tự nhiên, học cách giao tiếp với người xung quanh. 7/22 Các văn bản được tuyển chọn thường là những trích đoạn trọn vẹn. Ngôn ngữ của các văn bản hồn nhiên, trong sáng, hiện đại và thích hợp với trẻ em 6, 7 tuổi. Văn xuôi được dạy xen kẽ với văn vần và chiếm tỉ lệ cao hơn (Tổng số có 42 bài tập đọc thì có 23 bài thuộc thể loại văn xuôi, 19 bài văn vần). Các văn bản được xếp theo trật từ từ ngắn đến dài, từ đơn giản đến phức tạp. Độ dài từ tuần đầu đến tuần cuối sách dao động khoảng từ 50 đến 100 tiếng. 1.2. Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu dạy học có liên quan đến bài tập đọc sẽ dạy: 1.3. Xác định được đặc điểm và trình độ đọc của học sinh. 1.4. Nắm được mục tiêu, nội dung dạy học của giờ tập đọc. 1.5. Nắm vững phương pháp dạy học tập đọc 1.6. Soạn bài (giáo án): Giáo viên cần thiết kế bài dạy khoa học¸ chính xác, chi tiết, quan tâm đúng mức tới rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh. 2. Biện pháp 2: Định hướng cách đọc bài tập đọc, đọc văn bản. Hướng dẫn HS đọc các từ khó, câu dài trong bài tập đọc. Rồi luyện cho học sinh đọc đoạn, tiến tới đọc toàn bài, ngắt nghỉ đúng dấu câu. Cao hơn nữa là yêu cầu học sinh đọc hiểu nội dung văn bản. Đọc thầm là hình thức đọc không phát ra thành âm thanh mà chuyển trực tiếp từ kí tự sang nghĩa để hiểu văn bản. Để dạy đọc thầm, cần làm các việc sau: 1. Chuẩn bị cho việc đọc thầm: tư thế ngồi đọc thầm phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách từ 30 – 35 cm. 2. Tổ chức quá trình đọc thầm: Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to đọc nhỏ đọc mấp máy môi (không thành tiếng) đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi (đọc thầm). Giai đoạn cuối lại gồm hai bước: di chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay rồi đến chỉ có mắt di chuyển. Cần quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. Mục đích của đọc thầm là để hiểu. Kết quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên cần nêu câu hỏi định hướng trước khi học sinh đọc thầm. Ví dụ : Bài “ Cái nhãn vở” Học sinh luyện đọc các từ khó: nhãn vở, trang trí, nắn nót, ngay ngắn. Học sinh luyện đọc các câu dài: Bố nhìn những dòng chữ ngay ngắn, khen con gái / đã tự viết được nhãn vở. Giáo viên cho học sinh luyện đọc từng đoạn, luyện đọc toàn bài. 8/22 3. Biện pháp 3: Cung cấp một số từ ngữ để học sinh hiểu nội dung bài. Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài đọc. Bắt đầu từ việc hiểu nghĩa từ. Việc chọn từ nào để giải thích còn phụ thuộc nhiều vào đối tượng học sinh. Giáo viên phải có hiểu biết về vốn từ để chọn từ giải thích cho phù hợp, đồng thời phải chuẩn bị để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà các em yêu cầu. Ví dụ : Bài “ Bàn tay mẹ” Giáo viên giải nghĩa từ “ rám nắng”: da bị nắng làm cho đen lại. Giáo viên giải nghĩa từ “ xương xương”: bàn tay gầy, nhìn rõ xương. Ngoài ra giáo viên còn kết hợpcho học sinh quan sát hình ảnh để học sinh hiểu nghĩa của từ hơn. bµn tay 4. Biện pháp 4: Hệ thống lại câu hỏi trong sách giáo khoa bằng dạng bài tập đọc hiểu. 4.1. Phân loại các dạng bài tập dạy đọc hiểu Kĩ năng đọc hiểu được hình thành qua việc thực hiện một hệ thống bài tập. Những bài tập này xác định đích của việc đọc, đồng thời cũng là những phương tiện để đạt được sự thông hiểu văn bản của học sinh. - Phân loại theo các bước lên lớp, ta có: bài tập kiểm tra bài cũ, bài tập luyện tập, bài tập củng cố, bài tập kiểm tra đánh giá. - Phân loại theo hình thức thực hiện, ta có: bài tập trả lời miệng, bài tập trả lời viết (tự luận), bài tập thực hành đọc, bài tập trắc nghiệm. - Phân loại theo mức độ tính độc lập của học sinh ta có: bài tập tái hiện, bài tập suy luận, bài tập sáng tạo. - Phân loại theo đối tượng thực hiện bài tập, ta có: bài tập cho cả lớp làm chung, bài tập dành cho nhóm học sinh, bài tập dành cho cá nhân, bài tập cho học sinh đại trà, bài tập cho học sinh yếu, bài tập cho học sinh khá – giỏi. 9/22 4.2. Hình thức của bài tập dạy đọc hiểu - Dạng bài tập dùng lời: nhược điểm của bài tập này là tại một thời điểm chỉ có thể có một hoặc một vài học sinh được nói, những học sinh không được gọi đọc và trả lời câu hỏi, làm bài tập thì chỉ ngồi nghe. Hành động “nghe” vốn thụ động, kết quả nghe không được thể hiện ra bên ngoài nên giáo viên không kiểm soát được, học sinh không hoạt động tích cực, giảm hứng thú học tập. - Dạng bài tập trắc nghiệm: yêu cầu học sinh dùng các kí hiệu chữ viết để vẽ, tô, nối, đánh dấu, viết với sự hỗ trợ của kênh hình. Các bài tập trắc nghiệm gồm các kiểu: điền từ, lựa chọn khoanh đáp án đúng, đối chiếu cặp đôi, nêu câu hỏi và yêu cầu trả lời ngắn (bằng hình thức viết). Chuyển từ hình thức bài tập bằng lời thành bài tập trắc nghiệm hoặc ngược lại là một việc làm dễ dàng. Vì vậy căn cứ vào điều kiện dạy học cụ thể mà giáo viên sẽ chọn hình thức bài tập nào để giờ học đạt kết quả tốt nhất. Ví dụ: 2 câu hỏi bài tập của bài Hoa ngọc lan (TV1- T2) 1. Nụ hoa lan màu gì? 2. Hương hoa lan thơm như thế nào? Tôi đã chuyển thành những bài tập có hình thức trắc nghiệm như sau: 1. Nụ hoa lan màu gì? Đánh dấu x vào ô trống trước ý trả lời đúng: bạc trắng xanh thẫm trắng ngần 2. Hương hoa lan thơm như thế nào? Đánh dấu x vào ô trống trước ý trả lời đúng: thoang thoảng ngan ngát ngào ngạt 4.3. Các kiểu dạng bài tập dạy đọc hiểu xem xét từ góc độ nội dung Dựa vào mục đích, nội dung dạy học, các công việc cần làm để tổ chức quá trình đọc hiểu và cách thức hoạt động của học sinh khi giải bài tập, ta có thể phân loại các bài tập thành các dạng bài như sau: a. Nhóm bài tập làm rõ đích tác động và hồi đáp văn bản * Bài tập làm rõ đích tác động của văn bản: Ví dụ: Bài Nói dối hại thân (TV1 - T2) Câu chuyện khuyên em điều gì? Ghi dấu x vào ô trống trước ý em tán thành: Không nên nói dối vì nói dối sẽ có hại cho bản thân, cho cả người khác. Nói dối không có hại gì cả. * Bài tập hồi đáp văn bản: Ví dụ: Bài Người bạn tốt (TV1 - T2) 10/22 Ghi dấu x vào ô trống trước ý em cho là đúng: Người bạn tốt là người: rất thân thiết, gắn bó với mình. giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn. b. Nhóm bài tập có tính chất nhận diện, tái hiện ngôn ngữ của văn bản: Học sinh chỉ cần nhận diện, ghi nhớ, phát hiện ra các từ ngữ, câu, đoạn, hình ảnh, chi tiết của văn bản. Nhóm này có các kiểu bài tập sau: * Bài tập yêu cầu học sinh xác định đề tài của văn bản: thường có dạng hỏi trực tiếp như “Câu chuyện này nói về ai, về cái gì, có những nhân vật nào?” Ví dụ: Bài Mời vào (TV1 - T2): Những ai đã đến gõ cửa ngôi nhà? * Bài tập yêu cầu học sinh phát hiện ra các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh của bài: Lệnh của bài tập là gạch dưới, ghi lại hoặc trả lời những câu hỏi Ai? Gì? Nào? mà câu trả lời có sẵn, hiển hiện trên ngôn từ của văn bản. Ví dụ: Bài Sau cơn mưa ( TV1 - T2) Sau trận mưa rào mọi vật thay đổi thế nào? - Những đóa râm bụt. - Bầu trời - Mấy đám mây bông * Bài tập yêu cầu phát hiện ra những câu quan trọng của bài: Ví dụ: Bài Bàn tay mẹ (TV1 - T2): Đọc câu văn diễn tả tình cảm của Bình với đôi bàn tay mẹ? * Bài tập yêu cầu học sinh phát hiện ra đoạn: Ví dụ: Bài Lũy tre (TV1 - T2) + Những câu thơ nào tả lũy tre vào buổi sớm? + Những câu thơ nào tả lũy tre vào buổi trưa? c. Nhóm bài tập làm rõ nghĩa của ngôn ngữ văn bản Đây chính là nhóm bài tập yêu cầu giải nghĩa từ, làm rõ nghĩa và cái hay, cái đẹp của từ ngữ, câu, đoạn, bài, hình ảnh, chi tiết. * Bài tập yêu cầu giải nghĩa từ ngữ: Ví dụ: Bài Người bạn tốt (TV1 – T2) + Em hiểu thế nào người bạn tốt ? Ghi dấu x vào ô trống trước ý trả lời đúng: rất thân thiết, gắn bó với mình giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn * Bài tập yêu cầu làm rõ nghĩa của đoạn: Ví dụ: Bài Làm anh (TV1 – T2) 11/22 Nối từng ô ở cột A với từng ô ở cột B cho phù hợp với nội dung bài tập đọc: - Bài tập tìm nội dung chính của bài, ý nghĩa của văn bản: Ví dụ: Bài Nói dối hại thân (TV1 – T2) Ghi dấu x vào cách kết thúc câu chuyện: Đàn cừu vẫn nhởn nhơ gặm cỏ. Đàn cừu chạy thoát. Bầy Sói chẳng phải sợ ai cả. Chúng tự do ăn thịt hết đàn cừu. 4.4. Yêu cầu của bài tập đọc hiểu và cách soạn thảo: Khi xây dựng bài tập, giáo viên phải xác định được mục đích, cơ sở xây dựng bài tập, phải có lời giải mẫu, phải dự tính được khó khăn và sai phạm của học sinh mắc phải khi giải bài tập và biết chuyển đổi hình thức bài tập khi cần thiết. - Mục đích của bài tập là những kiến thức, kĩ năng ta cần đem đến cho học sinh. Như vậy, khi xây dựng bài tập thì đáp án của nó - cũng chính là mục đích của bài tập – phải có trước. - Cơ sở xây dựng bài tập là: + Môn học, ở đây là môn Tiếng Việt, cụ thể hơn là nội dung dạy học. + Học sinh tiểu học, cụ thể là học sinh lớp Một. Như vậy, để xây dựng bài tập, phải xác định được mục đích và cơ sở của nó. Cơ sở khoa học đảm bảo cho bài tập có tính chính xác, đúng đắn. Cơ sở sư phạm đảm bảo cho bài tập có khả năng thực thi, có tính “vừa sức”. Tính khoa học đòi hỏi kiến thức trình bày trong bài tập phải đúng, chính xác, khoa học, đòi hỏi người soạn thảo bài tập phải biết sâu sắc mặt âm thanh và mặt nghĩa của văn bản. Tính sư phạm của bài tập đòi hỏi bài tập phải phù hợp với học sinh. Ngôn ngữ trong lệnh bài tập phải giản dị, dễ hiểu, bài tập phải có độ khó vừa phải. Yêu cầu này đòi hỏi giáo viên phải rất hiểu đối tượng học sinh của mình. Bên cạnh tính khoa học và tính sư phạm, bài tập còn phải có tính thú vị. Các bài tập được dùng trong giờ tập đọc phải đa dạng, phong phú để không làm cho học sinh cảm thấy đơn điệu, nhàm chán. Khi em bé ngã Khi em bé khóc Khi mẹ cho quà bánh Khi có đồ chơi đẹp anh nhường em. anh chia em phần hơn. anh nâng dịu dàng. anh phải dỗ dành A B 12/22 Mỗi bài tập đọc hiểu cần có đủ 3 phần: nêu nhiệm vụ, cung cấp thông tin và hướng dẫn Hình thức bài tập đọc hiểu cần đa dạng, tránh đơn điệu để gây hứng thú học tập cho học sinh 5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng đọc hiểu Dạy đọc hiểu ở lớp 1 là dạy cái gì? Đó là việc dạy các thao tác, các kĩ năng đầu tiên của kĩ năng đọc hiểu, cụ thể là: - Những thao tác đầu tiên của kĩ năng đọc thầm: thao tác đọc nhỏ, đọc nhẩm. - Các kĩ năng nhận diện ngôn ngữ: nhận ra từ, nhận ra câu, nhận biết dòng trên trang sách, nhận biết ý trong bài được minh họa bằng hình. - Các kĩ năng làm rõ nội dung văn bản: nhận biết nghĩa của từ, nhận biết nghĩa của câu, nhận biết ý chính của đoạn ngắn được thể hiện trong lời văn của đoạn. - Kĩ năng hồi đáp văn bản: chủ yếu tập trung vào thao tác liên hệ suy nghĩ và việc làm của nhân vật trong bài đọc với cuộc sống của bản thân học sinh để từ đó học sinh tự rút ra bài học đơn giản cho chính mình. Văn bản không phải là một khối thuần nhất, không thể phân cắt mà là một chỉnh thể được tạo nên từ nhiều yếu tố: tên bài, từ, câu, đoạn. Với tư cách là sản phẩm của hoạt động ngôn ngữ, văn bản có đề tài, nội dung, đích tác động. Để hiểu văn bản, ta phải đi tìm hiểu những yếu tố tạo nên văn bản đó. 5.1. Tìm hiểu đề tài của văn bản Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh hoặc đề cập tới trong văn bản. Học sinh nhận ra được đề tài văn bản khi trả lời được các câu hỏi: văn bản nói về cái gì, về việc gì, về ai? Để xác định đề tài của văn bản, nhiều khi ta cần dựa vào chủ điểm của bài tập đọc, cũng có khi có thể dựa vào tranh minh họa của bài tập đọc. Thông thường, đề tài được thể hiện ở tên bài, tên người, tên vật, tên việc nêu trong văn bản. Để xác định được đề tài, học sinh phải thực hiện các thao tác: - Đọc lướt lại toàn bài. - Phát biểu đề tài của bài. 5.2. Tìm hiểu tên bài Tên bài thường ngắn nhưng nói với chúng ta được nhiều điều. Nó giúp chúng ta xác định được đề tài văn bản và phần nào đoán định được nội dung của văn bản. Vì vậy, khi tìm hiểu văn bản, học sinh cần chú ý khai thác tên bài. 5.3. Tìm hiểu từ ngữ trong bài - Phát hiện ra từ khó và từ ngữ quan trọng của bài. - Làm rõ nghĩa của từ ngữ (giải nghĩa từ). - Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh. 13/22 5.4. Tìm hiểu câu, đoạn - Xác định những câu quan trọng và nhận diện đoạn ý của bài Nhận diện được đoạn là rất quan trọng vì nó giúp học sinh bước đầu ghi nhớ những điểm chung nhất của từng phần trong văn bản, tạo cơ sở để các em hiểu nội dung văn bản. - Làm rõ nội dung câu, đoạn của văn bản Kĩ năng làm rõ ý của đoạn có vai trò quan trọng trong việc hình thành kĩ năng tiếp theo: Tìm hiểu nội dung chính và đích tác động của văn bản. 5.5. Tìm hiểu nội dung chính và mục đích thông báo của văn bản * Làm rõ ý chính của văn bản: học sinh phải: + Ghi nhớ sự kiện chính, ý chính của từng đoạn. + Phân tích để làm rõ lập luận của người viết. + Tổng hợp ý của các đoạn theo lập luận của người viết thành ý chung của bài. + Phát biểu ý chung này dưới dạng một vài câu (một câu) mà chính là nội dung tổng quát của toàn văn bản. * Làm rõ đích thông báo của văn bản Đích tác động của văn bản chính là câu trả lời của câu hỏi: Người viết muốn người đọc có thêm hiểu biết gì, có tình cảm, thái độ gì, có mong muốn, hành động gì sau khi đọc văn bản. Học sinh làm rõ đích tác động của văn bản khi tự mình trả lời được các câu hỏi này. Đây là một kĩ năng khó đối với học sinh tiểu học. Vì vậy, phải phân thành nhiều mức độ để hình thành dần dần cho học sinh từ lớp dưới lên lớp trên. 5.6. Rèn luyện kĩ năng hồi đáp văn bản cho học sinh Đây là kĩ năng giữ vai trò hoàn thiện quá trình đọc hiểu. Rèn kĩ năng hồi đáp văn bản sẽ tạo cho học sinh có khả năng chủ động và sáng tạo trong việc lĩnh hội văn bản, từ đó hình thành cho các em tư duy phê phán và tư duy sáng tạo. Hồi đáp văn bản chính là những bài học được rút ra sau khi đọc văn bản. Dạy học sinh hồi đáp được văn bản, giáo viên đã thực hiện được chức năng giáo dục của giờ Tập đọc. 6. Biện pháp 6: Hình thức tổ chức dạy học Dạy đọc hiểu trong bài Tập đọc lớp 1 giáo viên cần tổ chức cho học sinh hoạt động bằng cách nhìn, nghĩ, nghe, làm và nói. Cụ thể là: * Tổ chức cho học sinh nhìn chữ để đọc to và đọc nhẩm, nhìn tranh minh họa. * Tổ chức cho học sinh nghĩ dưới các hình thức: + Ghi nhớ từng phần nội dung bài. + Phân tích và tổng hợp (ở mức đơn giản) để tìm nghĩa của từ, nêu nhận xét đơn giản về con người hoặc việc được đề cập trong bài. 14/22 + Giải quyết vấn đề (ở mức đơn giản) theo cách liên hệ những nội dung đơn giản trong bài đọc với cuộc sống để định hướng suy nghĩ hay hành động đúng cho bản thân. * Tổ chức cho học sinh nghe dưới các hình thức sau: + Nghe giáo viên đọc mẫu kết hợp với nhìn và đọc nhẩm theo. + Nghe câu hỏi, lời giao nhiệm vụ, lời chỉ dẫn của giáo viên. * Tổ chức cho học sinh làm dưới các hình thức: + Cá nhân đọc nhỏ và đọc nhẩm bài. + Cá nhân hoặc nhóm làm các bài tập. + Tham gia chơi các trò chơi để hiểu bài. + Làm theo chỉ dẫn trong bài. * Tổ chức cho học sinh nói dưới các hình thức: + Đặt và trả lời câu hỏi về nội dung bài đọc (với giáo viên và với bạn). + Nhắc lại một phần nội dung đã ghi nhớ trong bài. + Nói lại kết quả những việc đã làm theo chỉ dẫn của bài đọc hoặc theo yêu cầu của giáo viên. + Phát biểu ý kiến của cá nhân hoặc của nhóm trong khi thảo luận về nội dung bài đọc. Để có thể tổ chức cho học sinh hoạt động, cần phải có các bài tập được sắp xếp theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp làm phương tiện để hoạt động. 7. Biện pháp 7: Sử dụng đồ dùng dạy học đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy Đồ dùng dạy học đóng vai trò quan trọng trong tất cả các tiết học. Nó là phương tiện giúp giáo viên truyền đạt kiến thức một cách nhanh nhất, đơn giản nhất, dễ hiểu nhất. Có đồ dùng dạy học, học sinh sẽ hứng thú say mê học tập. Chính vì vậy, khi sử dụng đồ dùng dạy học giáo viên cần nghiên cứu kĩ. Mặt khác giáo viên khi sử dụng đồ dùng dạy học cũng phải phân bổ thời gian rõ ràng: sử dụng đồ dùng dạy học lúc nào, thời gian sử dụng bao lâu? Đồng thời luôn phải tự đặt cho mình câu hỏi: sử dụng đồ dùng dạy học để khai thác nội dung gì, nhằm rèn cho học sinh kĩ năng gì? phát huy tư duy gì cho học sinh? Đặc biệt đồ dùng dạy học phải khoa học, đẹp mắt phù hợp với tâm sinh lý của học sinh. Giáo viên phải biết sử dụng đồ dùng đúng lúc, đúng chỗ, hợp lý và khoa học. Điều quan trọng là giáo viên tránh lạm đồ dùng dạy học. Sử dụng tranh ảnh để giải thích từ mới, để gợi ý nội dung bài đọc. Sử dụng giáo án điện tử Sử dụng các phiếu bài tập đọc hiểu. 15/22 Một số hình ảnh trong bài: “ Chú công” giáo viên có sử dụng máy chiếu. TËp ®äc Chó c«ng Lóc mí i chµo ®êi, chó c«ng nhá chØcã bé l«ng t¬ mµu n©u g¹ ch. Sau vµi giê, c«ng ®· cã ®éng t¸ c xoÌ c¸ i ®u«i nhá xÝu thµnh h×nh rÎ qu¹ t. Sau hai, ba n¨ m, ®u«i c«ng trèng lí n thµnh mét thø xiª m ¸ o rùc rì s¾c mµu. Mçi chiÕc l«ng ®u«i ãng ¸ nh mµu xanh sÉm, ® î c t« ®iÓm b»ng nh÷ng ®èm trßn ®ñ mµu s¾c. Khi gi ¬ng réng, ®u«i xoÌ trßn nh mét c¸ i qu¹ t lí n cã ®Ýnh hµng tr¨ m viª n ngäc lãng l¸ nh. 1 2 3 4 5 Nãi c©u chøa tiÕng cã vÇn oc hoÆc ooc Con cãc lµ cËu «ng giêi. Nãi c©u chøa tiÕng cã vÇn oc hoÆc ooc BÐ mÆc quÇn soãc. 8. Biện pháp 8: Tổ chức các trò chơi Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh lớp Một là học mà chơi, c
Tài liệu đính kèm: