Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trong giờ tập đọc

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trong giờ tập đọc

Rèn kĩ năng đọc thầm

Nếu đọc thành tiếng là nhằm giúp học sinh củng cố kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm thì đọc thầm lại nhằm giúp học sinh nắm bắt đúng và đủ lượng thông tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật. Vì vậy, giáo viên cần căn cứ vào nội dung rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu ở lớp 4 để hướng dẫn học sinh luyện tập các thao tác thích hợp trong giờ tập đọc.

Đọc thầm là hình thức đọc bằng mắt không phát âm thành tiếng. Mục đích của đọc thầm thường để tìm hiểu bài theo yêu cầu câu hỏi hoặc thực hiện bài tập ngắn trong sách giáo khoa, đọc thầm lướt qua (đọc nhanh) để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý. Ngoài ra, giáo viên còn hướng dẫn học sinh đọc thầm theo bạn (giáo viên) để nắm được cách đọc. Vì vậy, để tránh trình trạng học sinh đọc cho có lệ, giáo viên cần nắm vững đặc trưng quan trọng của phương pháp này, từ đó định hướng cho học sinh đọc thầm đạt hiệu quả cao nhất.

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 6063Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4 trong giờ tập đọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện pháp giúp học sinh rèn kĩ năng đọc tốt, đọc một cách có ý thức thì chất lượng học đọc của học sinh sẽ được nâng lên, góp phần nâng cao chất lượng học tập các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường.
 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trường Tiểu học Y Ngông được thành lập năm 2008 với ba điểm trường đóng trên ba buôn đặc biệt khó khăn của xã Dur Kmăl. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số hàng năm chiếm đến 98% tổng số học sinh toàn trường. Hầu hết các em thuộc diện gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhận thức về giáo dục và chăm lo việc học hành của cha mẹ học sinh đối với con em còn nhiều hạn chế vì vậy việc phối hợp với cha mẹ học sinh để nâng cao chất lượng học tập cho các em gặp rất nhiều khó khăn. 
Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo phòng giáo dục cũng như sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp giáo viên được bồi dưỡng nâng cao tay nghề bằng nhiều hình thức khác nhau. Chính sự quan tâm đó đã giúp đội ngũ giáo viên vững vàng hơn về chuyên môn nghiệp vụ, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học.
Hầu hết giáo viên đã nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng đặc biệt của việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc. Song trong thực tiễn vẫn còn một bộ phận giáo viên chủ quan, chưa chú tâm mấy đến khâu chuẩn bị bài, chưa tìm được biện pháp rèn kĩ năng đọc phù hợp vì vậy chất lượng học đọc của học sinh còn có những hạn chế nhất định. 
Trong chương trình lớp 4, Tập đọc là một phân môn cơ bản làm cơ sở cho học sinh học tốt các phân môn khác của môn Tiếng Việt cũng như những môn học khác. Lên lớp 4, đa số học sinh đã có kĩ năng đọc tốt hơn so với các lớp 1,2,3. Tuy nhiên, do ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ, tiếng địa phương nên các em thường phát âm thiếu hoặc thừa dấu thanh Nhiều em chưa nắm vững quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ; chưa xác định đúng cách ngắt nghỉ trong câu khi đọc; kĩ năng đọc - hiểu, đọc diễn cảm còn nhiều hạn chế. 
Xuất phát từ thực trạng trên, để tiếp tục phát huy những điểm mạnh đồng thời khắc phục những hạn chế, cần phải đưa ra một số giải pháp thiết thực hơn, phù hợp đối tượng học sinh, điều kiện của đơn vị, địa phương để thực hiện hiệu quả việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
	Giúp giáo viên thực hiện hiệu quả một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc. 
Từng bước nâng cao kĩ năng đọc nhằm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác để hoàn thành chương trình lớp học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các lớp học, cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường. 
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
b.1. Chuẩn bị cho giờ dạy
Khâu chuẩn bị của giáo viên có vai trò quan trọng, quyết định sự thành công của mỗi tiết dạy. Vì vậy, để việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong mỗi giờ học tập đọc đạt hiệu quả tốt nhất, giáo viên cần chuẩn bị những nội dung sau:
Nghiên cứu kĩ Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt cho mỗi bài, phù hợp với khả năng trình độ của từng đối tượng học sinh học sinh trong lớp.
Đọc bài nhiều lần để đọc tốt và hiểu thấu đáo nội dung bài đọc. Phải trả lời các câu hỏi và các câu trả lời này sẽ giúp giáo viên xác định mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp các bài tập đọc như: 
+ Trong bài vừa đọc học sinh dễ mắc những lỗi nào về phát âm ? (đó thường là những tiếng khó, những chỗ ngắt nhịp khó, đặc biệt hoặc câu quá dài). 
+ Giọng điệu chung của cả bài như thế nào ? Đoạn nào cần nhấn giọng, cần đọc diễn cảm, cần bộc lộ cảm xúc gì ?
+ Bài cần được đọc trong thời gian bao lâu ? (xác định tốc độ).
+ Những từ ngữ nào cần được giải nghĩa, những nội dung nào cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu ?... 
Xem xét hệ thống câu hỏi cuối mỗi bài để có sự điều chỉnh phù hợp với cách hiểu của mình về bài đọc cũng như phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho giờ dạy, ví dụ đồ dùng trực quan (tranh ảnh, vật thật), bảng phụ
Những nội dung trên cần được xem là căn cứ quan trọng để giáo viên xác định mục tiêu cần đạt cho mỗi tiết học, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh khi thiết kế bài dạy. Chính khâu chuẩn bị này giúp giáo viên tránh được việc quá lệ thuộc vào sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng, bị động khi tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp, áp đặt học sinh tham gia các hoạt động học một cách máy móc, dập khuôn, không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
b.2. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng
b.2.1. Đọc thành tiếng để luyện đọc đúng
Phân môn Tập đọc ở lớp 4 tiếp tục rèn kĩ năng đọc cho học sinh với yêu cầu củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm, đồng thời tiến hành luyện đọc diễn cảm. Để thực hiện tốt các yêu cầu này, giáo viên thường xuyên phải sử dụng biện pháp hướng dẫn học sinh đọc với cả hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm theo những mục đích và yêu cầu luyện tập khác nhau. 
Đọc thành tiếng để giúp học sinh luyện đọc đúng. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi, không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, thanh, nghỉ ngắt hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu). 
Vì vậy, trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các lỗi khi đọc. Căn cứ vào đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh địa phương hoặc các vùng dân tộc thiểu số dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó luyện đọc trước. Ví dụ, học sinh người dân tộc Ê Đê thường phát âm thiếu hoặc thừa dấu thanh, không nắm vững quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từĐối với học sinh dân tộc thiểu số, khi hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, giáo viên cần lưu ý không để hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến phát âm tiếng Việt. 
Giáo viên hướng dẫn học sinh cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. 
Ví dụ: Khi đọc, không được tách một từ làm hai, không ngắt hơi: 
 “Dải mây/ trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng/ lam ôm ấp nóc nhà gianh.”
Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm, không đọc:
 “Thằng/ em bé nép đầu bên yếm mẹ.”
 “Con/ bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.”
Đối với những câu văn dài, để xác định đúng cách ngắt nghỉ trong câu khi đọc, giáo viên cần hướng dẫn học sinh căn cứ vào những đặc điểm sau: ý nghĩa của các từ, cụm từ trong câu và ý nghĩa của cả câu văn; diễn biến nội dung câu chuyện (bài đọc); đặc điểm, tính cách, thái độ, tình cảm, lới nói nhân vật; diễn biến tâm lí, cảm xúc khi đọc. Như vậy, ngoài việc ngắt, nghỉ ở các dấu câu còn có các trường hợp ngắt, nghỉ như: ngắt, nghỉ tâm lí; ngắt, nghỉ theo ý nghĩa; ngắt, nghỉ tình huống.
Ví dụ: “ Đến khi/ cậu bé chỉ quả táo cắn dở/ đang căng phồng trong túi áo/ của quan coi vườn ngự uyển/ thì ai nấy đều bật cười thành tiếng//.” (Tập đọc: Vương quốc vắng nụ cười - Tiếng Việt 4 - tập 2). Đây là cách ngắt, nghỉ theo ý nghĩa, căn cứ vào ý nghĩa của các từ, cụm từ trong câu và ý nghĩa của cả câu văn. Trong câu văn này, các hình ảnh cần chú ý là: quả táo cắn dở; túi áo căng phồng (vì trong đó có quả táo cắn dở); quan coi vườn ngự uyển. Như vậy, khi đọc không thể tách ra: quả táo/ cắn dở; đang căng phồng/ trong túi áo của quan/ coi vườn ngự uyển.
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu (nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm), đọc đúng các ngữ điệu câu (lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm)Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm. Rèn kĩ năng đọc đúng là tiền đề để học sinh đọc diễn cảm tốt. Vì vậy, để giúp học sinh thực hiện tốt kĩ năng này, trong quá trình học sinh luyện đọc, giáo viên cần lắng nghe để nhận xét, gợi ý, hướng dẫn về cách phát âm, về ngắt, nghỉ hơi hay tốc độ đọc cho phù hợp.
b.2.2. Đọc thành tiếng để luyện đọc nhanh (hoặc đọc lưu loát, trôi chảy)
 Đọc nhanh là nói đến tốc độ đọc. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Vì vậy, để rèn kĩ năng đọc nhanh cho học sinh tiểu học, giáo viên thường hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu.
Đọc mẫu là một biện pháp có tác dụng nhất định trong quá trình dạy học phân môn Tập đọc ở tiểu học. Tuy nhiên, thực tế dạy học cho thấy, đến lớp 4, một số học sinh đã có kĩ năng đọc khá tốt (đọc lưu loát và bước đầu diễn cảm). Để phát huy tính tích cực và tạo hứng thú trong giờ học Tập đọc, giáo viên nên giao việc đọc toàn bài (làm mẫu) trước khi luyện đọc cho một hoặc hai học sinh đã đạt được trình độ đọc khá chuẩn mực (nếu có). Sau khi luyện đọc củng cố, trước khi tìm hiểu bài và luyện đọc ở mức cao hơn (đọc diễn cảm), giáo viên đọc mẫu toàn bài để vừa có ý “chốt” lại hoạt động trước (luyện đọc) vừa định hướng tiếp cho các hoạt động sau (tìm hiểu bài, đọc diễn cảm), hiệu quả rèn kĩ năng đọc nhanh cho học sinh vì thế sẽ cao hơn.
Việc sử dụng biện pháp đọc mẫu của giáo viên cần linh hoạt, tùy thuộc trình độ học sinh ở các vùng miền khác nhau. Đối với một số vùng dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh khó khăn, ở giai đoạn đầu lớp 4, giáo viên có thể phải đọc mẫu toàn bài để dễ hướng dẫn học sinh luyện đọc. Tuy nhiên, đó chỉ là cách dạy tạm thời, giáo viên cần nâng dần chất lượng đọc của học sinh để có thể thực hiện dạy theo quy trình phân môn Tập đọc lớp 4, đồng thời phát huy được nét riêng sáng tạo của học sinh về cách đọc. Bên cạnh đó, giáo viên cần vận dụng linh hoạt các biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc cho học sinh.
b.2.2. Đọc thành tiếng để luyện đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọngđể biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Kĩ năng đọc diễn cảm thường được luyện tập thông qua các văn bản nghệ thuật, sau khi học sinh đã đạt được những yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành mạch), đã tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc.
Đối với lớp 4, để giúp học sinh làm quen và từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn cảm, giáo viên cần căn cứ vào nội dung, phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc và tập thể hiện bằng giọng đọc. Đối với văn bản nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vậttrong bài. Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin cơ bản) giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. 
Để phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh trong quá trình luyện đọc diễn cảm, giáo viên không nên áp đặt cho học sinh một cách đọc theo khuôn mẫu. Cần tránh thiên về tìm hiểu, phân tích quá chi tiết về cách đọc (Ví dụ: xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng) rồi sau đó mới luyện đọc thể hiện theo cách đọc giống nhau. Đọc diễn cảm cũng còn phụ thuộc vào cảm nhận riêng của từng cá nhân. Vì vậy, nên tổ chức cho học sinh luyện tập “tự bộc lộ” trên cơ sở đọc mẫu của giáo viên và kết quả của việc tìm hiểu bài, qua đó mà chỉ dẫn, điều chỉnh về cách đọc cho học sinh. Tuy nhiên, cần khắc phục những cách đọc thiên về hình thức hoặc “diễn cảm” tùy tiện của học sinh. Căn cứ vào đối tượng học sinh, giáo viên có thể hướng dẫn luyện đọc diễn cảm như sau:
Cách 1: Sau khi tìm hiểu bài, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, giáo viên dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc sao cho hợp lí. 
Ví dụ: 
+ Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng đọc như thế nào (vui hay buồn) ?
+ Để nêu bật đặc điểm của nhân vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào ?
+ Lời nói của nhân vật cần đọc với thái độ như thế nào ?...
Cách 2: Giáo viên đọc mẫu nhằm minh họa, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. 
Ví dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của cô đã ngừng nghỉ (ngắt nhịp) ở những chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào ? Vì sao cô nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ đó ? Chỗ nào trong cách đọc của cô mà em thích, vì sao ?...
Cần tạo điều kiện cho từng học sinh được thực hành luyện đọc diễn cảm (cá nhân, theo nhóm) để tự rút kinh nghiệm. Tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để các em được học tập lẫn nhau và được giáo viên động viên hay uốn nắn 
b.3. Rèn kĩ năng đọc thầm
Nếu đọc thành tiếng là nhằm giúp học sinh củng cố kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm thì đọc thầm lại nhằm giúp học sinh nắm bắt đúng và đủ lượng thông tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật. Vì vậy, giáo viên cần căn cứ vào nội dung rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu ở lớp 4 để hướng dẫn học sinh luyện tập các thao tác thích hợp trong giờ tập đọc.
Đọc thầm là hình thức đọc bằng mắt không phát âm thành tiếng. Mục đích của đọc thầm thường để tìm hiểu bài theo yêu cầu câu hỏi hoặc thực hiện bài tập ngắn trong sách giáo khoa, đọc thầm lướt qua (đọc nhanh) để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý. Ngoài ra, giáo viên còn hướng dẫn học sinh đọc thầm theo bạn (giáo viên) để nắm được cách đọc. Vì vậy, để tránh trình trạng học sinh đọc cho có lệ, giáo viên cần nắm vững đặc trưng quan trọng của phương pháp này, từ đó định hướng cho học sinh đọc thầm đạt hiệu quả cao nhất.
Đọc thầm theo bạn (giáo viên) là hình thức đọc thường được thực hiện ở giai đoạn bước đầu vào bài mới hay khi hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm. Yêu cầu chỉ đơn giản là học sinh nhìn lướt theo nội dung mà bạn (giáo viên) đọc to thành tiếng. Theo dõi để xác định giọng đọc của bài như: nên đọc nhanh hay chậm, chỗ nào cần nhấn giọng, chỗ nào cần ngắt nghỉTrong thực tế, khi dạy phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4, phần đọc mẫu toàn bài lần một thường là học sinh khá đọc. Tuy nhiên giáo viên cần căn cứ vào đối tượng học sinh để định hướng học sinh đọc thầm hiệu quả.
 Ví dụ: 
- Đối với trường thuận lợi, có học sinh đọc mẫu tốt, giáo viên chỉ nêu yêu cầu cho học sinh đọc thầm theo bạn để xác định giọng đọc của bài (nên đọc nhanh hay chậm, chỗ nào cần nhấn giọng, chỗ nào cần ngắt nghỉ.)
- Đối với đối tượng học sinh vùng khó khăn, thời gian đầu lớp 4, kĩ năng đọc còn hạn chế. Trước khi học sinh đọc mẫu, giáo viên có thể định hướng giọng đọc cơ bản của bài (bài này các em cần đọc, cần nhấn giọng ở các từ, ngữ), đến phần đọc diễn cảm giáo viên mới hướng dẫn học sinh xác định cụ thể hơn. Bởi phần đọc diễn cảm thường chỉ yêu cầu luyện đọc một hay hai đoạn của bài. 
Đọc thầm để trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập ngắn trong sách giáo khoa thường được thực hiện ở bước tìm hiểu bài. Hiệu quả của bước đọc thầm này được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Khi thực hiện hình thức này, giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài đọc. Căn cứ vào nội dung, từng yêu cầu, đối tượng học sinh để tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân hoặc nhóm cho phù hợp. Cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc - hiểu (Ví dụ: đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào ? Đọc để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ và trao đổi về điều gì ?...). Từ đó, từng bước hình thành cho học sinh thói quen tập trung chú ý khi đọc để thu nhận thông tin, để “nhập thân” và cảm thụ văn bản nghệ thuật.
Trong suốt quá trình học, giáo viên cần rèn cho học sinh cách trả lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn gãy gọn, mạch lạc, dùng từ đúng, không đọc nguyên văn bài đọc khi trả lời câu hỏi Đối với học sinh vùng khó khăn, học sinh khó khăn trong học tập, nếu câu hỏi dài, khó hiểu, giáo viên nên phân ra nhiều câu hỏi nhỏ hoặc thêm câu hỏi phụ để dẫn dắt học sinh trả lời được câu hỏi theo cách diễn đạt của mình.
Ví dụ: Trong bài “Đôi giày ba ta màu xanh” (Tiếng Việt 4 - tập 1) có câu hỏi “Tác giả của bài văn đã làm gì để động viên cậu bé lái trong ngày đầu đến lớp ? Tại sao tác giả lại chọn cách làm này ?”. Giáo viên có thể chia thành các câu hỏi nhỏ như sau: Chị phụ trách đội được giao việc gì ? Chị phát hiện ra Lái thích cái gì, vì sao chị biết điều đó ? Chị đã làm gì để động viên cậu bé Lái trong ngày đầu tới lớp ? Tại sao chị chọn cách làm đó ?
Bên cạnh đó, giáo viên có thể hướng dẫn và rèn cho học sinh kĩ năng nhận dạng loại câu hỏi (Ví dụ: Đây là câu hỏi “vì sao” hay “cái gì” hay “như thế nào” và các từ quan trọng trong câu hỏi để từ đó giúp học sinh xác định đúng yêu cầu câu hỏi. 
Ví dụ: Trong bài “Rất nhiều mặt trăng” (Tiếng Việt 4 - tập 1) có câu hỏi “Cách nghĩ của chú hề có gì khác với các đại thần và các nhà khoa học ?”. Đối với câu hỏi này, giáo viên cần giúp học sinh thấy được yêu cầu của câu hỏi là so sánh, thể hiện qua cụm từ “có gì khác với”, mà yêu cầu của “so sánh” là phải có ít nhất hai đối tượng (đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh). 
Nhận dạng đúng câu hỏi sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời đầy đủ câu hỏi theo cách diễn đạt của mình, tránh được việc đọc nguyên văn bài đọc khi trả lời câu hỏi.
Đọc thầm (lướt) để nắm ý hoặc chọn ý là hình thức thường được sử dụng để tìm hiểu nội dung bài; ý chính của từng đoạn văn, khổ thơ; phát hiện những từ ngữ nào được nhắc lại nhiều lần trong đoạn, bài; những hành động thể hiện rõ tính cách nhân vật trong đóĐây là hình thức có yêu cầu khó hơn so với các hình thức trên. Để tổ chức hiệu quả hình thức này, giáo viên cần từng bước đề ra nhiệm vụ hay yêu cầu từ dễ đến khó nhằm giúp học sinh làm quen dần với cách đọc thầm nhanh (mở rộng trường nhìn, đọc lướt toàn câu hoặc cả đoạn). 
Ví dụ: Đọc thầm thật nhanh để phát hiện từ ngữ nào được nhắc lại nhiều lần trong đoạn văn; đọc thầm trong khoảng một phút và cho biết bài thơ bộc lộ tình cảm gì của tác giả ? đọc lướt toàn bài để tìm ra những hành động thể hiện rõ tính cách của nhân vật
Đọc thầm lướt là hình thức khó, tuy nhiên, giáo viên nên có những câu hỏi nhỏ gợi mở để dẫn dắt học sinh, không máy mọc theo sách giáo khoa hoặc sách hướng dẫn. Cần tạo điều kiện để tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều được tham gia, nâng cao dần thói quen tư duy suy nghĩ độc lập cho các em, tránh chỉ tập trung vào đối tượng học sinh khá giỏi. 
b.4. Rèn kĩ năng luyện đọc theo nhóm
Hình thức tổ chức luyện đọc theo nhóm thường có tác dụng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, tạo cơ hội cho từng cá nhân được thực hành trong quá trình học đọc. Việc tổ chức cho học sinh luyện đọc theo nhóm phải đem lại hiệu quả thiết thực, tránh hình thức thì mới đạt hiệu quả như mong muốn. 
Khi tổ chức cho học sinh luyện đọc theo nhóm, chỉ nên cho học sinh luyện đọc theo nhóm đôi (theo cặp). Cần tính toán thời gian luyện đọc của học sinh và số lần tổ chức sao cho phù hợp, thiết thực. Tránh tình trạng cho học sinh làm việc trong thời gian quá ngắn hoặc tổ chức quá nhiều lần luyện đọc nhóm trong một tiết dạy nhưng ít hiệu quả.
Giáo viên cần đưa ra yêu cầu cụ thể cho học sinh về mục đích, nhiệm vụ khi luyện đọc trong nhóm như: luyện đọc cá nhân, đọc diễn cảm cho bạn nghe; nghe bạn đọc để cùng chia sẻ kinh nghiệm về cách đọc tốt hoặc đọc và bày tỏ ý kiến thảo luận về vấn đề do giáo viên nêu raHình thành thói quen tự giác làm việc và ý thức kỉ luật cho học sinh như: thực sự tham gia vào quá trình luyện đọc; đọc thành tiếng với mức độ vừa phải, không làm ảnh hưởng đến nhóm khác; thái độ trao đổi nhẹ nhàng, lịch sự và tôn trọng ý kiến của bạn
Trong quá trình học sinh luyện đọc theo nhóm, giáo viên thường xuyên giám sát, động viên hay giúp đỡ học sinh (nhất là đối với học sinh đọc

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN- Lê Thị Liên ( TH Y Ngông).doc