Qua thực tiễn giảng dạy, Chúng tôi nhận thấy rằng trong một lớp bao giờ cũng xuất hiện 3 đối tượng hs: Học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém. Do vậy chất lượng của lớp không đồng đều. Vì thế trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải chú ý cả ba đối tượng hs này, phải có một phương pháp giảng dạy thích hợp. Trong bài giảng bao giờ cũng phải có hệ thống câu hỏi thích hợp, dành cho từng đối tượng hs để gây cho các em lòng tin, tự khẳng định bản thân mình. Nếu chỉ có lòng nhiệt tình thôi thì chưa đủ mà giáo viên còn phải có phương pháp giảng dạy thích hợp, có năng lực và trình độ sư phạm tốt có kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhất là đối với hs yếu, kém phải hết sức quan tâm bồi dưỡng thì các em mới theo kịp bạn bè và nắm được hệ thống kiến thức lô gíc. Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng cho hs noi theo. Muốn đạt được điều đó thì người giáo viên phải có trình độ cao, có ý thức học hỏi, trau dồi và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ cho bản thân.
ến 1. Hoàn cảnh nảy sinh sỏng kiến: Đổi mới phương phỏp dạy học là một vấn đề rất cần thiết trong quỏ trỡnh giảng dạy hiện nay. Đũi hỏi người giỏo viờn cần cú sự đầu tư rất lớn để tỡm ra phương phỏp dạy thớch hợp. Tuy nhiờn, đú khụng là một vấn đề đơn giản mà mỗi chỳng ta cần phải gúp một phần cụng sức nhỏ bộ của mỡnh trong giảng dạy. Từ đú rỳt ra những kinh nghiệm của bản thõn trong thực tế giảng dạy, để cú biện phỏp dạy học tốt hơn nhất là phần rốn học sinh học yếu Toỏn lớp 2.Chớnh vỡ vậy,chỳng tụi đó cố gắng tỡm hiểu, nghiờn cứu để tỡm ra những biện phỏp rốn học sinh yếu Toỏn ở lớp 2. Cơ sở lớ luận: Tiểu học là bậc học" nền tảng" trong nền giáo dục nước nhà. Vì vậy người giáo dục- giáo viên Tiểu học có một vai trò rất quan trọng là người đặt viên gạch hồng đầu tiên xây dựng nền móng tri thức cho các em là một ông thầy tổng thể tạo điều kiện cho các em phát triển toàn diện. Đối với học sinh Tiểu học, được đi học là bước ngoặt trong cuộc sống của trẻ. Các em được đặt chân vào một thế giới khoa học đầy mầu sắc và cũng rất mới mẻ. Các em được tiếp cận với các môn học về tự nhiên và xã hội. Trong đó môn Toán có một vị trí rất quan trọng, nó đòi hỏi người thầy giáo có một sự lao động nghệ thuật sáng tạo, tìm ra những phương pháp phù hợp. Đặc biệt nó đòi hỏi mỗi học sinh phải có niềm say mê, có phương pháp học tập sáng tạo để giải các bài tập toán. Với hs lớp 2, các em đã được học Một năm ở bậc Tiểu học lẽ ra các em phải có phương pháp và các kỹ năng cơ bản để giải toán. Song trong thực tế giảng dạy chỳng tôi thấy vẫn còn một số hs học yếu môn Toán. Trước tình hình của lớp, với lòng yêu nghề mến trẻ của mình, với trách của một người giáo viên chỳng tôi đã băn khoăn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để hs dễ hiểu giảm bớt khó khăn, hạn chế hs học yếu toán ở lớp 2. Đây cũng chính là lí do khiến chỳng tôi chọn đề tài: " Một số biện pháp rèn học sinh yếu Toán ở lớp 2". Nghiên cứu đề tài này chỳng tôi mong rằng sẽ tìm ra được những nguyên nhân học sinh học yếu toán và tìm ra được những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng môn Toán ở lơp 2, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục nói chung và công tác giảng dạy ở trường Tiểu học nói riêng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp " Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước". 2. Thực trạng của vấn đề: Ngay từ khi nhận lớp chỳng tôi đã bắt tay vào việc nghiên cứu tình hình học tập của các em. Thông qua sổ điểm, học bạ, vở nghi, vở bài tập của các em chỳng tôi thấy các em nắm kiến thức Toán còn mơ hồ chưa chắc, có nhưng em học rất yếu. Số em yếu là đa dạng, có những em yếu cả Toán và Tiếng Việtnhưng đa số các em học yếu Toán. Cụ thể tôi đã thống kê được kết quả về môn Toán của hai lớp như sau: Cụ thể chỳng tôi đã thống kê được kết quả về môn Toán của hai lớp như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 6 21 12 41 6 21 5 17 Lớp 2B(24) 4 17 10 41 6 25 4 17 Như vậy bước đầu chỳng tôi đã tìm ra những hs yếu trong số em được bồi dưỡng, kèm cặp. Để chính xác hơn về số lượng và phần kiến thức nào các em còn hổng chỳng tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng vòng đầu với đề sau: Câu 1: Tính ( có đặt tính) 42 + 54 5 + 23 66 - 16 60 +25 84 - 21 58 - 7 Câu 2: Viết các số: a) Từ 70 đến 80. b) Từ 89 đến 95 Câu 3: Mai và Hoa làm được 36 bông hoa, riêng Hoa làm được 16 bông hoa. Hỏi Mai làm được bao nhiêu bông hoa. Chấm bài xong tôi thu được kết quả như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 8 28 12 42 5 17 4 13 Lớp 2B(24) 6 25 10 42 5 21 3 12 Qua khảo sát chất lượng, theo dõi cách học của học sinh tôi nhận thấy hs yếu Toán do một số nguyên nhân sau: Học sinh có nhiều" lỗ hổng" kiến thức ngay từ lớp dưới. Mặt khác khi đến trường cũng như ở nhà các em còn mải chơi không chú ý đến việc học tập. Trong lớp không chú nghe giảng nhất là giờ toán các em hay mất trật tự, nghịch ngơm, làm việc riêng, khi cô hỏi không trả lời được. Các em ngồi học nhưng vẫn nhớ đến đồ chơi đẹp hay những trò chơi thích thú trong giờ ra chơi sắp tới nên không tiếp thu được bài dẫn tới hổng kiến thức. Đặc điểm của hs Tiểu học là mau nhớ nhưng lại chóng quên, tư duy lô gích kém nên không hiểu bài này thì sang bài sau các em sẽ không tiếp thu được. Cứ như vậy kiến thức sẽ chồng chất lên nhau tạo thành sự thiếu hụt lớn. *Về phía giáo viên: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm lớp còn mải truyền thụ kiến thức mới cho kịp thời gian. Chưa chú ý tới việc kèm cặp hs yếu, nếu có chỉ qua loa một vài lần thế các em chậm hiểu, lại không có thời gian lên bỏ mặc. Trong khi giảng bài hệ thống câu hỏi chủ yếu dành cho hs khá, giỏi và trung bình, không chú ý ra câu hỏi giành cho hs yếu: Do vậy, nhiều khi ngồi trong lớp học toán mà các em thấy quá nhàn dỗi sinh ra nói chuyện, làm việc riêng, không chú ý đến bài giảng. Khi về nhà lại lười học, không chịu làm bài tập nên đã học yếu lại càng yếu hơn. *Về phía gia đình: phần lớn phụ huynh các em làm nông nghiệp, suốt ngày:" Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời". Nên ít có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái mình. Mặt khác do trình độ dân chí còn thấp nên có quan tâm dạy dỗ thì củng chưa đúng phương pháp hay cáu gắt, mắng mỏ làm các em rối trí lại càng không hiểu. Còn có gia đình lại cho rằng việc dạy dỗ là do nhà trường do thầy cô giáo nên không cần dạy ở nhà. Có những phụ huynh không tạo điều kiện về cơ sở vật chất: Bàn học, bút, vở, thước, Không tạo điều kiện về thời gian bắt trông em nhiều khi đang học bài bị bố mẹ sai việc này, việc khác dẫn đến các em lười học, kiến thức không lô gíc. Như vậy môi trường sống, phương pháp dạy, sự quan tâm của ba môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Qua đó chỳng tôi thấy việc rèn hs học yếu toán là việc làm cần thiết và tạo tiền đề cho các em học tốt các môn học khác. 4.,Cỏc giải phỏp thực hiện: a- Qua quá trình nghiên cứu và đọc sách giáo khoa toán 2 và các loài sách có liên quan để tìm hiểu và nắm vững nội dung chương trình, kiến thức cần truyền đạt cho các em không nhàm chán, bớt căng thẳng. Chương trình toán 2 gồm: Số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học và giải toán có lời văn. Từ việc nghiên cứu các tài liệu trên chỳng tôi đã hiểu và nắm vững nội dung chương trình. Nắm vững được kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm cần truyền đạt cho các em b- Trong giảng dạy khi lên lớp chỳng tôi tìm tòi những phương pháp thích hợp nhất với đối tượng hs yếu như giảng chậm, sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp trong khi giảng cần đặt ra những câu hỏi riêng cho những hs yếu. Ví dụ: Dạy bài tìm số bị trừ: x - 5 = 15 ở những hs khá, giỏi, trung bình chúng tôi yêu cầu các em làm bài xong mới trình bày cách làm. - Nhưng ở những hs yếu chúng tôi đòi hỏi cách làm trước sau đó các em mới làm bài. + Em hãy nêu thành phần trong phép tính? + Thành phần nào trong phép tính đã biết? + Thành phần nào trong phép tính chưa biết? + Trong phép tính ta phải tìm thành phần nào? Muốn tìm số bị trừ chưa biết em làm như thế nào? Từ việc trẻ nhỏ các câu hỏi như vậy, các em nắm chắc cách tìm số bị trừ chưa biết chúng tôi hướng dẫn các em vận dụng làm bài tập. Khi dạy đến phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 chúng tôi yêu cầu hs nắm chắc được các hàng. Chúng tôi phân tích số tỉ mỉ và yêu cầu hs yếu ghi vào vở để về nhà xem lại. Chúng tôi phân tích số cụ thể như sau: Số 56 gồm: 5 chục và 6 đơn vị. Sau đó chúng tôi lấy ví dụ khác và gọi hs yếu lên bảng phân tích như trên. Dạy cộng trừ các số có nhớ trong phạm vi 100 tôi lưu ý cho các em cách đặt tính đúng thì mới tính kết quả đúng được. Ví dụ: 56 + 28 Việc đầu tiên chúng tôi yêu cầu hs phân tích cấu tạo số như phân tích ở trên. Qua phân tích các em nắm được đâu là hàng chục, đâu là hàng đơn vị. Khi đặt tính phải đặt thẳng hàng chục với hàng chục ( 2 đặt dưới 5 ) . Sau đó hs thực hiện tính từ phải sang trái cách viết kết quả cũng thẳng hàng. Đối với loại toán có lời văn tôi đã hướng dẫn các em làm từng phần từng bước đúng quy trình nhưng dễ hiểu, dễ nhớ. Ví dụ: Bài 4 ( trang 82) Lớp 2A trồng được 48 cây, lớp 2B trồng nhiều hơn lớp 2A 12 cây. Hỏi lớp 2B trồng được bao nhiêu cây? Đối với loại toán này tôi yêu cầu các em học yếu phải đọc nhiều lần sau đo gợi mở giải bài toán theo các bước sau: Bước1: Nghiên cứu bài. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Bước 2: Các bước giải. Tóm tắt ( giáo viên gợi ý tóm tắt) 48 cây Lớp 2A: Lớp 2B: ? cây Bước 3: Lập kế hoạch giải. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi, gợi mở để dẫn dắt hs. Bài toán hỏi gì? ( Lơp 2B trồng được bao nhiêu cây) Muốn biết lớp 2B trồng được bao nhiêu cây ta làm thế nào? ( lấy 48 + 12 ) Bước 4: Thực hiện các phép tính theo trình tự thiết lập. Sau khi hướng dẫn xong chúng tôi yêu cầu hs khá, giỏi, trung bình làm vào vở, riêng hs yếu làm ra nháp. Chúng tôi quan sát, bao quát toàn lớp nhưng đặc biệt chú ý tới hs yếu. Nếu thấy em nào còn lúng túng về cách làm bài thì giúp các em bằng những câu hỏi gợi mở riêng để các em hiểu thêm và tìm ra cách giải sau đó làm vào vở. Khi chấm bài chúng tôi thường chấm tay đôi với những em hs yếu để chỉ cho các em những cái đúng, cái sai trong bài làm của mình và hướng dẫn cho hs sửa những chỗ sai đó như thế nào. Trong quá trình chấm nếu các em này giải đúng phép tính và câu trả lời còn chưa hoàn chỉnh tôi vẫn cho điểm tối đa để động viên khích lệ các em hào hứng học tập hơn. Đối với những em chưa đúng hết còn có phần sai thì tìm những chỗ đúng, chỉ ra những chỗ sai và cho điểm động viên thêm để các em không bị mặc cảm. Những em quá yếu khi thấy các em giơ tay phát biểu ý kiến là phải gọi và gợi mở để các em trả lời. Nếu trả lời đúng chúng tôi cho điểm, khen trước lớp, có thể cho cả lớp vỗ tay khen bạn. Sau khi học xong phần kến thức nào chúng tôi cũng cho hs ôn bài lại và cho các em làm bài kiểm tra đánh giá cho điểm thật chính xác. Bài tập về nhà hôm nào chúng tôi cũng kiểm tra xem bài giải của các em thường sai phần kiến thức nào thì bổ sung kịp thời. Song song với việc đó chúng tôi còn hướng dẫn các em cách đọc, có phương pháp học theo thời gian biểu, học kĩ lý thuyết xong mới làm bài tập. Khi làm bài tập phải đọc kỹ đề bài, nêu tóm tắt bằng sơ đồ hoặc bằng lời văn ngắn gọn. Làm bài bao giờ cũng làm vào vở nháp trước sau đó mới chép vào vở chính. c. Trong từng tiết dạy chúng tôi chuẩn bị bài chu đáo, nhiều nghiên cứu bài dạy từ phần mục tiêu, đồ dùng dạy học, phương pháp giảng dạy và những kiến thức cần truyền đạt.Chúng tôi chuẩn bị những câu hỏi cho từng đối tượng hs. Vì các em học yếu toán thường hay tư duy cụ thể nên tôi sử dụng nhiều đồ dùng trực quan và yêu cầu các em thực hành nhiều vào nháp, lên bảng làm bài tập để các em làm quen mạnh bạo dần và tự khẳng định mình trước tập thể. Bên cạnh việc hướng dẫn các em học tập trên lớp tôi còn xây dựng các nhóm học tập cho các em. Mỗi nhóm khoảng 5 em trong đó có những em học chắc hơn một chút để kèm cặp, giúp đỡ các em học yếu. d. Ngoài việc trao đổi qua sổ liên lạc với phụ huynh học sinh về việc học tập của con em mình chúng tôi còn thường xuyên thông báo và gặp gỡ tới từng phụ huynh để trao đổi, đề nghị gia đình tạo điều kiện về thời gian, về cơ sở vật chất ( bàn học, sách, vở, đồ dùng học tập,) phải có góc học tập ở nơi có đủ ánh sáng và yên tĩnh, phải theo dõi sát việc học tập của con em mình hạn chế ti vi, không sai việc vặt khi các em đang học bàiGiáo viên và phụ huynh phải có sự gặp gỡ, trao đổi thường xuyên để tìm ra những biện pháp tích cực giúp đỡ các em nhanh tiến bộ. Về phần cá nhân mình, chúng tôi luôn luôn chuẩn bị bài chu đáo, luôn học hỏi và trao đổi kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy, luôn có tình cảm và thái độ tốt với các em. Với mỗi em, tôi tìm ra một phương pháp, một cách tiếp cận khác nhau để bồi dưỡng lượng kiến thức cho phù hợp. Khi giao bài về nhà chúng tôi luôn tìm, giao cho các em những bài toán vừa sức, vừa đủ với lực học của các em. Tạo không khí thoải mái, hào hứng khi học toán. Trước khi giao bài về nhà chúng tôi hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để các em có điều kiện làm tốt vở bài tập. 5, Kết quả đạt được: Qua quá trình hướng dẫn, rèn luyện và kèm cặp thường xuyên cùng với sự vận dụng nhiều phương pháp trong quá trình giảng dạy tôi đã thu được những kết quả sau: - Các em đã hạn chế và khắc phục được rất nhiều sai sót trong quá trình làm bài. Các em đã biết phân tích, suy luận và biết chọn phương pháp giải toán thích hợp cho từng bài. Từ đó các em biết phân tích đề ở những bài toán có lời văn để đi tới giải đúng, lời giải gãy gọn, không còn trường hợp phép tính này lời giải kia vì thế kết quả được nâng lên rõ rệt. Nhiều em đầu năm học chỉ là học sinh trung bình nhưng nay đã trở thành học sinh khá. Các em đã hiểu rằng muốn làm đúng thì phải đọc kĩ đề bài, phải thực hiện thành thạo các phép tính cộng, trừ. - Một số em học yếu toán giờ đây đã biết thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, không nhớ trong phạm vi 1000, biết cách giải toán, tự sửa chữa được sai sót của mình và tiến tới không mắc nữa. - Sau khi học xong phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, bảng nhân 5, bảng chia 5chúng tôi đã khảo sát chất lượng của các em bằng đề sau: Câu 1: Tính 68 + 17 47 + 35 58 -29 55 +16 81 - 27 72 - 31 Câu 2: Tìm x: x + 18 = 62 x - 27 = 37 40 - x = 8 Câu 3: Lan hái được 36 bông hoa, Mai hái ít hơn Lan 6 bông hoa. Hỏi Mai hái được bao nhiêu bông? Sau khi chấm bài tôi đã thu được kết quả như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 10 34 13 46 5 17 1 3 Lớp 2B(24) 8 33 11 46 4 17 1 4 *, So sánh đối chứng. Qua phương pháp rèn luyện, kèm cặp như trên chúng tôi rất phấn khởi vì thấy trong giờ toán hs say mê học tập, lớp học thật sự sôi nổi, đặc biệt là những em hs yếu đã có tiến bộ rõ rệt. Đầu năm các em học rất yếu, ngay cả việc đọc, viết còn nhầm, tính cộng, trừ còn tính đầu ngón tay, phép cộng,trừ có nhớ còn nhầm lẫn. Giờ đây các em đọc, viết số rất thành thạo, các kĩ năng cộng, trừ đã được nâng cao. Số học sinh khá giỏi tăng lên, hạn chế được số hs yếu. Cụ thể: Kết quả như sau Lớp 2A (29) Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Đầu năm 6 21 12 41 6 21 5 17 Giữa kì II 10 34 13 46 5 17 1 3 Lớp 2C (24) Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Đầu năm 4 17 10 41 6 25 4 17 Giữa kì II 8 33 11 46 4 17 1 4 Như vậy: *Lớp 2A Số hs giỏi tăng 4 em = 14 % Số hs khá tăng 1 em = 3 % Số hs trung bình giảm 1 em = 3 % Số lượng hs yếu giảm 4 em = 14 % *Lớp 2C Số hs giỏi tăng 4 em = 17 % Số hs khá tăng 1 em = 4 % Số hs trung bình giảm 1 em = 4 % Số lượng hs yếu giảm 3 em = 13 % Tuy kết quả chưa cao như ý muốn nhưng đó cũng là thành công bước đầu của chúng tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu, tìm tòi ra những phương pháp tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng môn toán nói chung và hạn chế số lượng hs yếu nói riêng. .6, Bài học kinh nghiệm: Để đảm bảo cho việc cung cấp và rèn luyện những tri thức kĩ năng toán học cơ bản, có hệ thống phù hợp với những điều kiện cụ thể của nhà trường Tiểu học. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu phương pháp hạn chế số học sinh yếu Toán 2. Chúng tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sư phạm như sau: - Ngay từ khi bắt tay vào năm học mới phải diều tra, nắm chắc trình độ học Toán và khả năng tính toán của từng hs trong lớp mình chủ nhiệm. - Biết phối hợp tốt giữa ba môi trường giáo dục. - Đọc sách giáo khoa, sách tham khảo để nắm vững nội dung chương rrình của khối lớp mình dạy. - Phải nghiên cứu chuẩn bị bài và đồ dùng dạy học thật chu đáo trước khi đến lớp. - Trong khi soạn phải có những câu hỏi và bài tập dành riêng cho hs yếu. - Khi dạy, lời nói phải nhẹ nhàng, dễ hiểu. - Thường xuyên ôn tập, củng cố kiến thức thành hệ thống và rèn kĩ năng giải toán. - Luôn có đổi mới về cách dạy gây hứng thú, tạo không khí thoải mái cho các em trong các giờ học nói chung và giờ Tôán nói riêng. - Thường xuyên kiểm tra sát sao việc học và làm bài ở nhà của hs. Khi chấm phải nên chấm tay đôi để chỉ và và phân tích những chỗ sai cho hs. - Học sinh yếu thường bi quan, chán nản, sợ học nên giáo viên phải sử dụng biện pháp đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đó là động viên, khích lệ các em. Để làm tốt những việc trên đòi hỏi giáo viên có lòng say mê nghề nghiệp, phải có năng lực giảng dạy Toán, phải có tính kiên trì, thương yêu hs. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận Qua thực tiễn giảng dạy, Chúng tôi nhận thấy rằng trong một lớp bao giờ cũng xuất hiện 3 đối tượng hs: Học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém. Do vậy chất lượng của lớp không đồng đều. Vì thế trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải chú ý cả ba đối tượng hs này, phải có một phương pháp giảng dạy thích hợp. Trong bài giảng bao giờ cũng phải có hệ thống câu hỏi thích hợp, dành cho từng đối tượng hs để gây cho các em lòng tin, tự khẳng định bản thân mình. Nếu chỉ có lòng nhiệt tình thôi thì chưa đủ mà giáo viên còn phải có phương pháp giảng dạy thích hợp, có năng lực và trình độ sư phạm tốt có kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhất là đối với hs yếu, kém phải hết sức quan tâm bồi dưỡng thì các em mới theo kịp bạn bè và nắm được hệ thống kiến thức lô gíc. Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng cho hs noi theo. Muốn đạt được điều đó thì người giáo viên phải có trình độ cao, có ý thức học hỏi, trau dồi và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ cho bản thân. Trong lớp người giáo viên phải làm tốt công tác tổ chức lớp và luôn chú ý, quan sát phát hiện kịp thời những hs yếu để từ đó đi sâu tìm hiểu nguyên nhân và tìm những biện pháp tốt, phù hợp giúp các em ngày càng tiến bộ. Đặc biệt người giáo viên cần phải kết hợp với gia đình học sinh trao đổi, hướng dấn họ phương pháp kèm cặp, dạy dỗ các em ở nhà, xây dựng góc học tập, thời gian biểu cho các em. Đồng thời biết gây hứng thú học tập và ý thức tự giác học tập cho các em. Có như vậy việc bồi dưỡng hs yếu, chất lượng giảng dạy mới có hiệu quả cao. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của chúng tôi trong việc rèn học sinh yếu Toán lớp 2. Có lẽ kinh nghiệm của chúng tôi còn nhiều hạn chế, thiếu xót. Rất mong được sự góp ý của cấp trên, của các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm của chúng tôi thêm phong phú, hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ bé của mình để nâng cao chất lượng dạyToán. 2. Kiến nghị: Để nâng cao chất lượng môn Toán cho hs hạn chế số hs học yếu môn Toán. chỳng tôi có một số ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau: - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên nhất là môn Toán. - Mở nhiều lớp đào tạo lại cho giáo viên tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được học tập, mở rộng và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ giáo viên. - Hỗ trợ tạo điều kiện tốt hơn nữa về cơ sở vất chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học cho các trường nhất là các trường ở vùng nông thôn như trường Tiểu học Tân Hồng của chúng tôi để phục vụ tốt hơn nữa cho việc dạy và học theo yêu cầu đổi mới. Tôi xin chân thành cảm ơn! * GIAể ÁN DẠY THỰC NGHIỆM TOÁN Tiết 81: ễn tập phộp cộng và phộp trừ I - Mục tiờu: - Hs thuộc bảng cộng trừ nhẩm trong phạm vi 20, cộng trừ cú nhớ trong phạm vi 100.Biết giải bài toỏn nhiều hơn. -Rốn kĩ năng làm tớnh, giải toỏn chớnh xỏc. -Giỏo dục HS ý thức học tốt II, Đồ dựng day học : -Phiếu học tập. -Bảng con, VBT II - Hoạt động dạy học A, Kiểm tra bài cũ : Đặt tớnh rồi tớnh : 28 + 36 ; 61 - 35 - GV gọi 2 HS làm bài. - Nhận xột đỏnh giỏ (GV -HS) B, Hoạt động dạy học : 1- Giới thiệu bài : - GV nờu mục đớch yờu cầu tiết học. 2- ễn tập Bài 1: Tớnh nhẩm -GV cho HS đọc yờu cầu. - Cho hs nhẩm theo cặp -Gv gọi vài cặp nhẩm trước lớp. - Khi HS nờu kết quả 9 + 7 và 7 + 9 - GV ghi bảng. -Khi biết 9 + 7 = 16 tại sao ta cú thể trả lời ngay được 16 - 7 = 9 ? *Củng cố cỏc bảng cộng, trừ Bài 2: Đặt tớnh rồi tớnh. - GV cho HS đọc yờu cầu -Cho hs làm bảng con -Gọi hs làm bảng lớp. - Gọi HS nờu cỏch làm. * GV củng cố cỏch đặt tớnh và thực hiện phộp tớnh.. Bài 3: (a,c):
Tài liệu đính kèm: