Trong khi đó, tôi thấy việc rèn đọc của học sinh còn nhiều hạn chế. Vẫn còn một số học sinh có tốc độ đọc còn chậm, đọc chưa trôi chảy, ngắt giọng chưa đúng, giọng đọc nhỏ, đọc chưa hay, Kết quả học đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc.
Đối với giáo viên, chất lượng giảng day là nhiệm vụ hàng đầu. Giáo viên có dạy tốt thì kết quả học tập của học sinh mới được nâng cao. Giáo viên dạy tốt hay không được đánh giá ở thành tích học tập của học sinh. Tuy nhiên hiệu quả chưa được như mong muốn. Tôi thấy mình cũng còn lúng túng khi dạy Tập đọc: Cần dạy học sinh đọc bài tập đọc này với giọng như thế nào? Làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh một cách triệt để nhất? Làm thế nào để các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn ? Đó chính là những trăn trở của tôi khi dạy đọc cho học sinh. Với mong muốn góp một phần công sức của mình vào việc giúp học sinh luyện đọc thành tiếng tốt hơn, đồng thời để nâng cao nghiệp vụ sư phạm của bản thân, tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5”.
, tường minh, trực quan. - Cường độ luyện tập phải cao, luyện đọc càng nhiều càng tốt và một nội dung luyện tập phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, được củng cố nhiều lần để thành kĩ xảo. - Phải lựa chọn ngữ liệu (từ ngữ, câu, đoạn) để luyện đọc sao cho tiết kiệm thời gian luyện tập.Vì vậy các ví dụ đưa ra luyện đọc phải là những chỗ sẽ tập trung các lỗi của học sinh về đọc thành tiếng cao. - Trong khi luyện tập cần phối hợp đồng bộ, tối đa, linh hoạt các biện pháp luyện đọc. 2.3. Mục tiêu dạy học Tập đọc lớp 5 Ở lớp 5, mục tiêu dạy học của phân môn Tập đọc lớp 5 được xác định như sau: a. Về kiến thức: - Hình thành và phát triển ở HS các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. - Cung cấp kiến thức sơ giản về tiếng Việt, và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam. - Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam. b.Về kĩ năng đọc: - Đọc được một bài khoảng 120 tiếng/1 phút. - Đọc thành tiếng và đọc thầm: + Biết đọc phù hợp các loại văn bản khác nhau .Đọc 1 màn kịch, vở kịch ngắn có giọng đọc phù hợp với nhân vật. + Đọc diễn cảm bài thơ đã thuộc hoặc một đoạn văn đã đọc. + Đọc thầm với tốc độ nhanh hơn lớp 4. - Đọc hiểu: + Biết tìm đại ý, tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút đoạn. + Nhận ra các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện trong bài. + Bước đầu đánh giá nhân vật, chi tiết và ngôn ngữ trong các bài tập đọc có giá trị văn chương. - Kĩ năng phụ trợ :Biết dùng từ điển, biết ghi chép các thông tin đã đọc, thuộc lòng 1 số bài văn vần và đoạn văn xuôi. c. Về thái độ: Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, bồi dưỡng cho học sinh tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt 3. Tầm quan trọng của việc nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 Tập đọc là một phân môn thực hành. Học Tập đọc, học sinh được rèn 4 kĩ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm). Bốn kĩ năng của đọc được hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản.Vì vậy,trong dạy học không thể xem nhẹ kĩ năng nào. Đối với học sinh Tiểu học thìcó kĩ năng đọc tốt còn là điều kiện cần thiết để rèn luyện tính tự giác trong quá trình đọc. Rèn kĩ năng đọc chính là rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hay. Học sinh có đọc tốt mới có thể hiểu được những gì được đọc. Bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức về văn học cho học sinh. Đọc một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới ngôn ngữ và tư duy của người đọc, giúp các em hiểu biết hơn, biết yêu cái thiện, cái đẹp, biết suy nghĩ một cách có logic cũng như biết tư duy có hình ảnh Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng , đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. Vì vậy, chất lượng của đọc trước hết được đo bằng hai phẩm chất: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó chính là hai kĩ năng đầu tiên của đọc. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC NÂNG CAO KĨ ANNWG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH LIỆT 2.Thực trạng việc nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5. 2.1. Thuận lợi + Giáo viên say mê, nhiệt tình trong giảng dạy, luôn tìm tòi, học hỏi, hết lòng vì học sinh, có kĩ năng, phương pháp sư phạm. + Giáo viên rất coi trọng giờ Tập đọc. 2.2. Khó khăn + Đôi khi giáo viên con lo lắng cho đúng thời gian 1 tiết dạy mà chỉ vận dụng các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc làm tiết tập đọc thường chưa tạo nhiều hứng thú cho học sinh. + Quan niệm về việc đọc của phụ huynh chỉ dừng lại ở việc con em mình đọc đúng từ, không quan tâm việc các con đọc ngắt, nghỉ hơi cũng như giọng đọc của con em mình. Vì vậy dù phụ huynh có quan tâm thì việc rèn đọc của các con tại nhà cũng chỉ dừng lại ở việc đọc đúng từ. 3. Thực trạng của việc nâng cao kĩ năng đọc của học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Thanh Liệt 3.1. Thuận lợi - Đa số học sinh thích học Tập đọc, thích học thuộc lòng, một số học sinh đọc diễn cảm tốt, hiểu và cảm nhận được nội dung, ý nghĩa của bài đọc, biết thể hiện cảm xúc của mình. - Phụ huynh học sinh quan tâm, sát sao với việc học của con em mình nên các em chăm chỉ và có ý thức học tốt. 3.2. Khó khăn: + Một số học sinh còn nhút nhát, chưa bạo dạn, tự tin khi đọc. Khả năng đọc của các em chưa đồng đều, vốn hiểu biết ít, chưa chịu khó suy nghĩ. + Một số em chưa tập trung học tập, chỉ chú ý được trong thời gian ngắn, dễ bị phân tán tư tưởng bởi những thứ xung quanh. + Một số học sinh chỉ thích đọc những bài văn vần vì chúng dễ nhớ, dễ đọc hơn, thích đọc những bài đọc có cốt truyện, có tình tiết li kì, nhân vật có hành động mà chưa hào hứng khi học đọc những bài văn xuôi thể loại trữ tình, miêu tả. + Đọc văn xuôi, học sinh thường ngắt giọng sai ở những câu dài, có cấu trúc phức tạp. Đọc thơ, học sinh mắc lỗi ngắt nhịp do các em không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo nhịp sao cho cân đối. + Học sinh còn đọc ngọng tiếng có âm đầu l/n, tiếng có thanh sắc/ thanh ngã. Qua khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học, cụ thể lớp 5E (với sĩ số 47 học sinh), phân môn Tập đọc đạt kết quả: Đọc hay, đọc diễn cảm : 17 em Đọc tốt : 20 em Đọc chưa tốt : 10 em trong đó: Đọc nhỏ, chưa lưu loát : 3 em Đọc ngọng l/n : 4 em Đọc ngọng thanh ngã : 3 em Thực tế, đây không phải là lỗi của riêng học sinh khi đọc, khi nói mà cả người dân địa phương cũng hay nhầm lẫn như vậy. Bởi vậy không thể sửa ngay cho học sinh tất cả những lỗi phát âm (ngọng) trong một giờ học mà đòi hỏi cần phải có thời gian. Từ những thực trạng về việc dạy và học Tập đọc của học sinh lớp 5 như đã nêu trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra những biện pháp để rèn kĩ năng luyện đọc cho học sinh lớp 5 mà tôi đã áp dụng. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5 1. Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 1.1. Biện pháp 1: Nắm chắc mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học của bài tập đọc. Mục tiêu của giờ học là cái đích mà thầy trò cần đạt được sau giờ học, nó sẽ được cụ thể hóa thành các nội dung dạy học. Tôi xác định kết thúc giờ Tập đọc học sinh phải có được kĩ năng đọc nào và các em hiểu thêm được điều gì. Cụ thể, tôi trả lời các câu hỏi sau: + HS cần đọc bài đọc trong thời gian bao lâu (để xác định tốc độ đọc, luyện kĩ năng đọc nhanh). + Những từ ngữ, câu nào học sinh cần luyện đọc (đọc đúng và diễn cảm) và vì sao lại chọn những từ, câu đó để luyện đọc. Nắm được mục tiêu giờ học, tôi thấy chủ động, xử lí linh hoạt hơn các tình huống trong giờ học. Tôi luôn chú ý đến mục đích rèn kĩ năng đọc cho học sinh, đó là: học sinh đọc trơn toàn bài, đọc đúng các từ khó. Tôi thường đọc trước nội dung bài với đúng giọng cần thiết, xác định từ khó trong bài và gạch chân bằng bút chì trong sách giáo khoa (VD: các từ có âm đầu l/n, các từ có vần khó). Với các câu khó đọc, tôi đọc và xác định cách ngắt nghỉ rồi gạch ( / ) vào trong sách để lưu ý khi hướng dẫn học sinh luyện đọc. Ví dụ 1: Dạy bài “ Trí dũng song toàn”. Tôi chọn những tiếng, từ có âm đầu l/n (vì học sinh lớp tôi còn phát âm sai ): khóc lóc, Liễu Thăng, cống nạp, loang, linh cữu để luyện đọc. Tôi viết những từ này lên bảng, yêu cầu học sinh luyện đọc cá nhân, đồng thanh. Ví dụ 2 : Dạy bài “ Những con sếu bằng giấy”. Tôi cho HS luyện đọc những từ sau: Xa-xa-cô Xa- xa-ki, Hi-rô-xi-ma, Na-ga-xa-ki, lâm bệnh nặng. Đọc câu: Nằm trong bệnh viện / nhẩm đếm từng ngày còn lại của cuộc đời mình, cô bé ngây thơ tin vào một truyền thuyết nói rằng / nếu gấp đủ một nghìn con sếu bằng giấy treo quan phòng, em sẽ khỏi bệnh. ( chú ý ngắt nghỉ và nhấn giọng ) - Khi đã xác định được mục tiêu, nội dung dạy học, tôi có thể lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho linh hoạt . + Hướng dẫn đọc từng đoạn trước lớp: Học sinh nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài. + Hướng dẫn đọc từng đoạn trong nhóm: Ở hoạt động này, tôi tạo thói quen đọc cho học sinh qua các bài Tập đọc. Học sinh nối tiếp nhau đọc và theo dõi sách giáo khoa để nhận xét, góp ý cho bạn về cách đọc; đọc vừa phải để không ảnh hưởng nhiều đến nhóm khác. + Hướng dẫn đọc đồng thanh (đoạn hoặc cả bài): Viêc đọc đồng thanh được vận dụng linh hoạt tùy thuộc từng bài Tập đọc. Dự kiến thời gian cho từng hoạt động dạy học: Việc phân bố thời gian trong một tiết dạy là một việc tưởng dễ nhưng lại không dễ chút nào, nó ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tiết dạy. Giờ Tập đọc có nhiệm vụ luyện kĩ năng đọc và kĩ năng tìm hiểu văn bản. Cả hai kĩ năng đều cần được coi trọng. 1.2. Biện pháp 2: Đọc mẫu và quan sát cách đọc của học sinh. a. Đọc mẫu: Đọc mẫu chính là đọc lần thứ nhất. Bước đọc mẫu rất quan trọng vì cách tiếp xúc trực tiếp, ấn tượng đầu tiên rất quan trọng. Nó quyết định học sinh yêu thích hay không yêu thích văn bản được đọc. Yêu cầu đọc mẫu phải đảm bảo chất lượng, đọc đúng chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. - Sau nhiều năm làm công tác giảng dạy, tôi nhận thấy rằng ngoài việc soạn bài kĩ, nếu giáo viên chú trọng vào việc đọc mẫu cũng góp phần quan trọng vào thành công của tiết dạy. Muốn học sinh đọc tốt thì trước hết giáo viên phải đọc tốt. Để đọc mẫu chuẩn, tôi chú ý làm tốt những việc sau: + Tôi luôn có ý thức tự điều chỉnh, rèn luyện để đọc đúng hơn, hay hơn, chau chuốt giọng đọc của mình, không phát âm, đọc tùy tiện nhằm dạy đọc có hiệu quả. +Với mỗi bài tập đọc, tôi thường đọc trước bài để hiểu, cảm nhận được văn bản, rồi đọc đi đọc lại để phát hiện ra các nhược điểm, tự điều chỉnh giọng đọc của mình sao cho chuẩn, hay hơn. - Ngoài luyện đọc đúng, hay, tôi luôn chú ý làm chủ âm thanh giọng đọc của mình, đọc với âm lượng đủ lớn để học sinh cả lớp đều có thể nghe rõ. Hiện nay, tôi cũng đang dùng mic trợ giảng để hỗ trợ thêm khi giảng bài, nhưng riêng với giờ dạy Tập đọc, nhất là khi đọc mẫu, tôi không bao giờ dùng mic trợ giảng để giữ chuẩn cho giọng đọc. - Khi đọc mẫu, tôi đứng ở phía trên, vị trí giữa lớp để bao quát cả lớp, không đi lại khi đọc mẫu, cầm sách đúng cách khi đọc: đỡ sách bằng lòng bàn tay trái, ngón tay trỏ kẹp giữa hai trang sách, tay phải cầm bên góc phải của sách. Ổn định trật tự lớp, tạo tâm thế nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo để theo dõi bài đọc. Khi đọc, thỉnh thoảng tôi nhìn lên học sinh để tạo sự giao cảm, thu hút các em. b.Quan sát cách đọc của học sinh: Sau khi đã đọc mẫu chuẩn, trong giờ dạy, tôi luôn quan sát giọng đọc của học sinh, lắng nghe học sinh đọc để nhanh chóng nhận ra được những từ, câu văn, câu thơ học sinh đọc đúng, tốt để động viên, khuyến khích kịp thời. Đồng thời, nhận ra những lỗi mà khi đọc học sinh còn hay mắc như: phát âm sai, đọc ấp úng, đọc thiếu hay thừa tiếng, ngắt giọng sai và chỉ ra cho các em sửa một cách cụ thể. + Nếu học sinh đọc tốt, tôi khen. chẳng hạn: “Bạnđọc to, đúng, giọng đọc nhẹ nhàng, tình cảm. Cô khen con. Cả lớp tặng bạn một tràng vỗ tay thật to nào!”. Những học sinh đọc còn mắc lỗi nhưng có tiến bộ hơn so với mọi ngày cũng được động viên một cách kịp thời . + Học sinh đọc thiếu tiếng, thừa tiếng:Tôi yêu cầu học sinh đó dừng đọc, rồi nói: “ Con đọc thiếu tiếng , Con đọc thừa tiếng. Con đọc lại câu đó cho cô nghe.” Ví dụ 1: Dạy bài: Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân – Sách TV5- Tập 2 Câu: “Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên bờ sông Đáy xưa”. Học sinh đọc là: “Hội thổi cơm ở làng Đồng Vân bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên bờ sông Đáy xưa.” Tôi yêu cầu học sinh đó dừng đọc, rồi nói: “ Con đọc thiếu tiếng “thi ”. Con đọc lại câu đó cho cô nghe.” Ví dụ 2 Dạy bài: Sự sụp đổ của chế độ a-pác-thai có học sinh đọc là: “Chế độ phân biệt chủng tộc ở đây được toàn thế giờ biết đến với cái tên gọi a-pac-thai.”, tôi nhắc để học sinh đó biết đã đọc thừa một tiếng và yêu cầu đọc lại câu này (Chế độ phân biệt chủng tộc ở đây được toàn thế giờ biết đến với tên gọi a-pac-thai). + Học sinh phát âm sai.Tôi yêu cầu học sinh đó dừng đọc rồi hướng dẫn học sinh đó . + Nếu học sinh không nhận ra những sai lệch trong cách đọc của mình, tôi mô phỏng lại cách đọc của học sinh một cách nhẹ nhàng, chẳng hạn: “Con đang đọc như thế này “” và bây giờ “ con cần đọc như thế này”, học sinh đã đọc được, tôi có thể cho học sinh đó tự nhận xét xem cách đọc lúc trước và cách đọc vừa xong thì cách đọc nào hay hơn. + Tư thế đứng khi đọc, cách cầm sách của học sinh chưa đúng đều được tôi chỉ dẫn và yêu cầu làm lại. Tôi yêu cầu học sinh đứng ngay ngắn, lưng thẳng khi đọc; khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 35 cm; mở sách, tay phải đỡ ở dưới, tay trái cầm góc phải của sách. Khi đọc mẫu, tôi luôn chú ý đứng và cầm sách đúng để học sinh học tập. 1.3. Biện pháp 3: Luyện đọc to, đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm cho học sinh. a. Luyện đọc to: Để quá trình dạy đọc cho học sinh có hiệu quả, tôi hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Đọc to là giao tiếp trước đông người. Tôi làm cho các em hiểu rằng: các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo nghe mà cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe nên cần đọc với giọng đủ lớn. Tôi thấy học sinh đọc nhỏ do các nguyên nhân sau đây: - Các em nhút nhát, thiếu tự tin do ngại tiếp xúc với nhiều người. - Các em chưa biết cách làm thế nào để đọc cho to. - Một số em đọc nhỏ do mình đọc chưa lưu loát nên ngại không muốn cô và các bạn nghe thấy. Để giúp học sinh đọc to hơn, tôi đã áp dụng các biện pháp sau: - Tôi động viên, khuyến khích, dạy cho các em biết cư xử đúng mực, tự nhiên trước tập thể lớp. Khi học sinh đứng trước các bạn nhiều lần, được động viên kịp thời, các em sẽ thích được đọc, sẽ quen đọc to, dõng dạc. - Học sinh chưa biết cách điều chỉnh giọng đọc, tôi hướng dẫn học sinh nâng giọng cao hơn, để đọc to hơn, thở sâu và lấy hơi ở những chỗ ngắt nghỉ khi đọc. b. Luyện đọc đúng: Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, các thanh, đúng trọng âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. - Tôi đọc mẫu rồi luyện đọc trơn cho các em bằng cách cho đọc từ, đọc cụm từ rồi đọc câu, đoạn với hình thức đọc cá nhân, nhóm, cả lớp. - Học sinh đọc sai âm đầu, vần và các thanh, luyện tập cho học sinh bằng cách phối hợp nhiều biện pháp cùng một lúc. Ví dụ: lúc nào thì đọc sai là lúc lào, khoác lên người thì đọc là khác lên người, huơ vòi thì đọc là hưa vòi, + Trước hết, tôi tạo cho học sinh có ý thức nói đúng, đọc đúng càng sớm càng tốt, biết lắng nghe, quan sát lời nói, cách đọc của bạn. + Tôi phát âm chuẩn các từ học sinh đọc sai và yêu cầu học sinh đó đọc theo. Ví dụ: Học sinh lớp tôi còn lẫn hai âm l/n- để chữa lỗi này cho học sinh, tôi trực quan hóa sự mô tả âm vị và hướng dẫn học sinh quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm âm nào. /n/ là một âm mũi, khi phát âm, sờ tay vào mũi sẽ thấy mũi rung, lưỡi thẳng đặt lên hàm trên. Còn khi phát âm / l/ mũi không rung, đầu lưỡi uốn cong lên hàm trên. Có em không ý thức được mình phát âm đúng hay sai vì các em còn phát âm tùy tiện, nhắc nhở rồi cho đọc lại thì các em sẽ đọc đúng ngay. + Tôi chú ý ở bước luyện đọc từ khó cho HS trong giờ Tập đọc: lựa chọn từ khó sát với lỗi của học sinh thường mắc, cho HS đọc từ nhiều, sửa lỗi đọc triệt để. Ví dụ: : Dạy bài: “Kì diệu rừng xanh” (TV tập 5 tập 1 – trang 75), tôi chọn các từ cho học sinh luyện đọc là: loanh quanh, nấm dại, lúp xúp, khổng lồ, ánh nắng (vì HS lớp tôi ngọng tiếng có âm đầu n/l), vẫn, gọn ghẽ,rẽ bụi rậm ( sửa ngọng thanh ngã). Ví dụ: Các em ngắt giọng sai, chẳng hạn như sau: + Sông Hương là một bức tranh / phong cảnh gồm nhiều đoạn/ mà mỗi đoạn đều có/ vẻ đẹp riêng của nó. + Cây và hoa của/ non sông gấm vóc đang dâng/ niềm tôn kính thiêng liêng theo đoàn/ người vào lăng viếng Bác. + Mẹ là/ ngọn gió của con suốt đời. - Tôi luyện để học sinh không đọc tách một từ ra làm hai. Như sau : + Không tách từ chỉ loại với danh từ nó đi kèm, ví dụ không đọc: “Những anh /gọng vó đen sạm”, “Một con/voi già lừng lững tiến về chiếc xe” mà phải đọc là: “Những anh gọng vó đen sạm”, “Một con voi già lừng lững tiến về chiếc xe”. + Không tách giới từ với danh từ đi sau nó, ví dụ không đọc: “Nhảy trên/ đường vàng”, “Ngựa nhón nhón/chân sau,vờ rên rỉ.” mà đọc là: “Nhảy trên đường vàng”, “Ngựa nhón nhón chân sau, vờ rên rỉ”. + Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó, ví dụ không đọc: “ Cháu là/ người có tấm lòng nhân hậu”, “Đảo khỉ là/ khu vực bảo tồn loài khỉ”, “Mẹ là/ ngọn gió của con suốt đời” mà đọc đúng là: “Cháu là người có tấm lòng nhân hậu”, “Đảo khỉ là khu vực bảo tồn loài khỉ”, “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”. Bởi vậy khi cho học sinh đọc câu khó, tôi viết câu lên bảng, cho HS tìm cách ngắt nghỉ theo cách đọc của cô giáo, nếu học sinh nêu đúng tooisex dùng phấn màu gạch chéo sau từ ngữ cần ngắt. Nếu học sinh chưa phát hiện ra, tôi đọc mẫu câu đó để học sinh nhận ra. Đồng thời, tôi luôn củng cố kĩ năng khi đọc gặp dấu chấm phải nghỉ hơi, dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, tôi gọi học sinh khá đọc rồi mới gọi những đọc chưa lưu loát, đọc ê a, ngắc ngứ lên đọc. Tôi cho học sinh luyện đọc cá nhân, đồng thanh rồi mới đọc hoàn chỉnh đoạn, bài. Ví dụ: + Sông Hương là một bức tranh phong cảnh gồm nhiều đoạn/ mà mỗi đoạn/ đều có vẻ đẹp riêng của nó. + Cây và hoa của non sông gấm vóc/ đang dâng niềm tôn kính thiêng liêng/ theo đoàn người vào lăng viếng Bác. + Mẹ/ là ngọn gió của con suốt đời. - Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ hơi ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. - Cuối cùng, học sinh phải được luyện đọc cá nhân nhiều. Với những học sinh đọc chưa tốt, tôi thường xuyên gọi đọc từ, câu đoạn. Một giờ học, những em này có thể được gọi đọc nhiều lần, đó cũng là cách hiệu quả giúp các em đó đọc tiến bộ hơn. c. Luyện đọc nhanh: Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến mặt tốc độ của đọc. Học sinh chỉ có thể đọc nhanh khi đã đọc đúng. Khi đọc cho người khác nghe, người đọc phải để cho người nghe kịp hiểu được. Vì vậy, đọc nhanh không có nghĩa là đọc liến thoắng. Nhưng nhìn chung, trình độ đọc của học sinh còn thấp, nhiều em đọc và nói đều chậm. Tôi đã luyện cho học sinh đọc nhanh bằng biện pháp sau: - Tôi hướng dẫn học sinh đọc đúng tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đầu tiên, tôi cho luyện đọc nhanh cụm từ, câu, đoạn, bài. Tôi điều chỉnh tốc độ đọc bằng các lệnh như: “đọc nhanh hơn”, “đọc chậm lại”. Ngoài ra, còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp dưới sự kiểm tra của tôi và các em HS khác. Những bài có nội dung khó hiểu đọc chậm hơn những bài có nội dung đơn giản, thơ đọc chậm hơn văn xuôi.. d. Luyện đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là một yêu cầu đọc thành tiếng đặt ra khi học sinh có khả năng làm chủ được ngữ điệu, làm chủ tốc độ, chỗ ngừng giọng, cường độ, cao độ của giọng để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với bài đọc. Tôi giúp học sinh làm quen với bài đọc, xác định giọng từng đoạn, giọng chung của cả bài: nhẹ nhàng, tình cảm, tha thiết hay mạnh mẽ, nhịp điệu của bài nhanh, hơi nhanh, chậm, hơi chậm Ví dụ 1: Dạy bài : “Ê-mi-li,con”, tôi hướng dẫn học sinh đọc vtrôi chảy toàn bài, ngắt nghỉ hơi đúng giữa các cụm từ, nhấn giọng ở câu thể hiện cảm xúc của chú Mo-ri-xơn. Ví dụ 2: Dạy bài: “Thư gửi các học sinh” là bài tập đọc thuộc thể loại văn bản hành chính, bởi vậy cần đọc bài với giọng rõ ràng, rành mạch, dứt khoát. - Xác
Tài liệu đính kèm: