Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử Lớp 4

Nội dung và cánh thức thực hiện giải pháp.

* Không coi Lịch sử là môn phụ.

Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nhà trường. Lịch sử chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ thống các môn học, số tiết vào loại ít nhất. Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng đắn về môn học thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện để đem lại kết quả như mong muốn. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông.”

Vì vậy, khi giảng dạy, tôi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan trọng, luôn dành thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết lịch sử, không cắt xén thời gian của Lịch sử cho việc dạy các môn khác.

* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong kĩ năng đọc và phân tích tư liệu:

Phương pháp dạy và học bây giờ là hạn chế tối đa việc học thuộc lòng. Để học sinh dễ hiểu, dễ nắm được những sự kiện, thời gian lịch sử, cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc và phân tích tư liệu. Ví dụ: Các kênh chữ nhỏ trong bài, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm, phân tích, giúp các em hiểu những thông tin do kênh chữ nhỏ cung cấp sau khi đi vào tìm hiểu những sự kiện qua kênh chữ lớn. Giáo viên dựa vào các câu hỏi trong sách giáo khoa ở giữa bài và cuối bài chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức giúp cho các em phát huy khả năng nói.

Ví dụ ở bài: “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyến lãnh đạo (năm 938)”.

Các em muốn biết nguyên nhân nào có trận Bạch Đằng , thì các em phải đọc thầm kênh chữ nhỏ và nắm được thông tin ở đầu bài

 

doc 28 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 1379Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kể, tường thuật của các em chậm, do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự tin, học thụ động.
* Các nguyên nhân - Các yếu tố tác động	
ÄVề phía giáo viên:
Do trình độ chưa đồng đều, hạn chế khả năng tiếp thu vận dụng phương pháp dạy học mới nên một số giáo viên quen dạy học theo phương pháp cũ, trong giờ Lịch sử, giáo viên dạy theo lối truyền thụ một chiều: Cô giảng- trò nghe, chỉ chú trọng vào việc học thuộc lòng hay đúng hơn là “học vẹt” để đối phó với các kì thi.
 	Giáo viên tiểu học được coi là một ông thầy tổng thể nhưng trong thực tế “ông thầy tổng thể” ấy không thể làm tổng thể mọi việc một cách chu đáo, vẹn toàn. Trong quá trình dạy, người giáo viên phải chuẩn bị một lượng kiến thức lớn cho các môn Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Thời gian lên lớp và chuẩn bị giáo án đã chiếm trọn thời gian của mỗi giáo viên. Vì vậy, việc tự học, tự bồi dưỡng kiến thức còn hạn chế. Nhiều giáo viên chưa thực sự nắm vững các kiến thức lịch sử.
Điều kiện giảng dạy còn nhiều khó khăn.
	ÄVề phía học sinh:
Học sinh mới làm quen với môn Lịch sử từ lớp 4 nên bước đầu các em còn nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với cách giảng, cách học lớp 4.
Học sinh ngại học Lịch sử vì học Lịch sử phải ghi nhớ nhiều sự kiện, số liệu.
Trình độ tư duy của các em còn non yếu nên việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức lịch sử còn hạn chế.
b. Phân tích ,đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
 	Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước còn hạn chế. Qua các thông tin đại đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn Lịch sử của các em lại thấp như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Kết quả học môn Lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, nhanh quên, các em chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tương thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử.
Chương trình Lịch sử lớp 4 đưa vào những sự kiện lịch sử từ buổi đầu dựng nước và giữ nước (khoảng 700 năm trước Công Nguyên),  những chứng cứ lịch sử. Qua đó các em sẽ được học cách làm việc khai thác tư liệu lịch sử của các nhà sử học. Tài liệu đã chú ý đến các kĩ năng sau đây của việc học tập lịch sử: Kĩ năng quan sát và phân tích tranh ảnh lịch sử; kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, sơ đồ, lược đồ, biểu đồ; Kĩ năng so sánh, trìu tượng hóa trên cơ sở sử liệu; Kĩ năng đánh giá, giải thích các tài liệu gốc; Kĩ năng sắp xếp hệ thống hóa các sự kiện hiện tượng lịch sử theo thời gian và không gian Từ đó các em mạnh dạn nêu thắc mắc, đặt câu hỏi và cùng tìm câu trả lời, trình bày kết quả học tập bằng cách diễn đạt của chính mình.
 	Thực tế mà mọi người đều thấy là một bộ phận lớp trẻ Việt Nam hiện nay ít hiểu biết về lịch sử nước nhà nhưng lại “thuộc lòng” lịch sử Trung Quốc. Đây là hậu quả sau một thời gian dài phim ảnh lịch sử nước này được trình chiếu dày đặc trên sóng truyền hình. Rõ ràng nước láng giềng đã thành công trong việc quảng bá văn hóa, lịch sử của họ thông qua phim ảnh. Vậy tại sao Việt Nam lại chưa làm được điều này?Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung học phổ thông quá thấp làm cho dư luận không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch sử của các em lại kém như vậy. Đây cũng chính là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày xưa nên học sinh không tiếp thu được. Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động,mau quên, chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự kiện, thời gian lịch sử.
 	Chương trình Lịch sử lớp 4 giúp học sinh có những kiến thức cơ bản, thiết thực về những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản ánh những vấn đế về sự phát triển các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858.
Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 gồm 8 giai đoạn: 
1. Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179). Gồm 2 bài.
2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
3. Buổi đầu đọc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài.
4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài.
5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài.
6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài.
8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có 1 bài tổng kết.
Về nội dung chương trình Lich sử lớp 4, mỗi bài học là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định. Sự chọn lọc như vậy nhằm đảm bảo mục tiêu phù hợp với thời lượng dành cho môn học cũng như trình độ nhận thức của học sinh. Để tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm nhận thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học.
Dạy học lịch sử phải dựa trên những cơ sở sử học, nó liên quan mật thiết với các sự kiện, hiện tượng, nhân vật tiêu biểu – người thật, việc thật  trong lịch sử. Trong việc khôi phục lại những bức tranh lịch sử ấy, dù ở cấp Tiểu học vẫn phải đảm bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng chính trị; tính vừa sức; tính thực tiễn - học đi đôi với hành. 
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử ở tiểu học nói riêng người giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học vào một tiết dạy. Không được xem nhẹ một phương pháp nào, mỗi phương pháp có những mặt mạnh và hạn chế riêng, không nên tuyệt đối hóa một phương pháp nào. Để tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả giáo viên cần biết lựa chọn ưu thế của từng phương pháp phù hợp với mục tiêu, nội dung của từng loại bài học nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
3. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIẢI PHÁP.
a. Mục tiêu của giải pháp.
Trong quá trình giảng dạy ở lớp 4, tôi nhận thấy rằng việc hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử cho học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn xin được trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài nhằm giúp học sinh học tốt môn Lịch sử sau đây:
b. Nội dung và cánh thức thực hiện giải pháp. 
* Không coi Lịch sử là môn phụ.
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng xứng đáng trong nhà trường. Lịch sử chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ thống các môn học, số tiết vào loại ít nhất. Phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng đắn về môn học thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện để đem lại kết quả như mong muốn. Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hóa dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông.”
Vì vậy, khi giảng dạy, tôi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan trọng, luôn dành thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết lịch sử, không cắt xén thời gian của Lịch sử cho việc dạy các môn khác.
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong kĩ năng đọc và phân tích tư liệu:
Phương pháp dạy và học bây giờ là hạn chế tối đa việc học thuộc lòng. Để học sinh dễ hiểu, dễ nắm được những sự kiện, thời gian lịch sử, cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc và phân tích tư liệu. Ví dụ: Các kênh chữ nhỏ trong bài, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm, phân tích, giúp các em hiểu những thông tin do kênh chữ nhỏ cung cấp sau khi đi vào tìm hiểu những sự kiện qua kênh chữ lớn. Giáo viên dựa vào các câu hỏi trong sách giáo khoa ở giữa bài và cuối bài chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức giúp cho các em phát huy khả năng nói. 
Ví dụ ở bài: “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyến lãnh đạo (năm 938)”. 
Các em muốn biết nguyên nhân nào có trận Bạch Đằng , thì các em phải đọc thầm kênh chữ nhỏ và nắm được thông tin ở đầu bài 
Hoặc bài: “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân” .
Để biết được tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, các em đọc thầm kênh chữ nhỏ nắm chắc nội dung kênh chữ sau đó trả lời câu hỏi: 
Sau khi Ngô Quyền mất tình hình nước ta như thế nào ? (Sau khi Ngô Quyền mất triều đình lục đục, tranh nhau ngai vàng..). 
Hay bài: “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)”. Giúp học sinh ghi nhớ nguyên nhân Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Giáo viên đọc cho học sinh nghe 1 số câu thơ: “Giận thay Tô Định bạo tàn. Nay ta dấy nghĩa diệt loài sói lang ! Một xin rửa sạch nước thù. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng . Bốn xin vẹn vẹn sở công lệnh này”. 
Và bài: “Thành thị ở thế kỉ XVI – XVII”.
Để các em mô tả đúng ba thành thị lớn của nước ta thế kỉ XVI – XVII. Tôi đưa ra bài tập sau: 
 Đặc điểm
Thành thị
Dân cư
Quy mô thành thị
Hoạt động
buôn bán
Thăng Long
Đông dân hơn nhiều thành thị ở châu Á
Lớn bằng thành thị ở một số nước châu Á
Những ngày chợ phiên, dân các vùng lân cận gánh hàng hóa đến đông không thể tưởng tượng được.
Buôn bán nhiều mặt hàng như áo, tơ lụa,
Phố Hiến
Có nhiều dân nước ngoài như Trung Quốc, Hà Lan, Anh, Pháp.
Có hơn 2000 nóc nhà của người nước khác đến ở.
Là nơi buôn bán tấp nập.
Hội An
Là dân địa phương và các nhà buôn Nhật Bản.
Phố cảng đẹp và lớn nhất Đàng Trong
Thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán
Tôi tiến hành theo các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK hoàn thành bảng thống kê sau:
Bước 2: Yêu cầu mỗi nhóm mô tả về một thành thị.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm mô tả đúng.
Cách học này giúp các em mô tả đúng về thành thị và ghi nhớ kiến thức đã học.
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong kĩ năng quan sát và kể lại, trình bày lại diễn biến cuộc kháng chiến qua bản đồ , lược đồ, 
Qua 3 bài đầu của môn Lịch sử - Địa lí đã hướng dẫn cho các em kĩ năng quan sát, chỉ, mô tả, kể những sự kiện lịch sử trên bản đồ, lược đồ. Vì vậy, một số bài có bản đồ, lược đồ, giáo viên cần sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, dễ cho học sinh quan sát. Phóng to để hấp dẫn, thu hút sự chú ý, giúp các em có ấn tượng sâu sắc và không bị quên lãng khi học xong.
 	Giáo viên chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phù hợp, vừa sức, giúp các em phát huy kĩ năng nói, khả năng diễn đạt khi kể hoặc trình bày, diễn biến theo bản đồ hoặc lược đồ.
Ví dụ bài: “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất (năm 981)”. Để học sinh trình bày được diễn biến cuộc kháng chiến, tôi xây dựng câu hỏi như sau:
1. Quân Tống xâm lược nước ta vào thời gian nào?
2. Chúng tiến vào nước ta theo mấy đường, là những đường nào?
3. Lê Hoàn chia quân thành mấy cánh và đóng quân ở những đâu để đánh giặc?
4. Kể lại hai trận đánh lớn giữa quân ta và quân Tống?
5. Kết quả của cuộc kháng chiến như thế nào?
Các bước tiến hành: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK thảo luận nhóm đôi trả lời các câu hỏi.
Bước 2: Yêu cầu trình bày các câu hỏi: 1em nêu câu hỏi, 1 em trả lời, vừa trình bày vừa chỉ lược đồ, nhóm khác nhận xét.
Bước 3: Gọi 1 số em trình bày toàn bộ diễn biến cuộc kháng chiến. 
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm trình bày đúng.
 Biện pháp này giúp các em hứng thú trong học tập, ghi nhận các mốc thời gian, sự kiện lịch sử chính xác và nhớ lâu.
Hoặc bài: “Chiến thắng Chi Lăng”. 
Giúp học sinh trình bày tóm tắt được diễn biến trận Chi Lăng, tôi xây dựng nội dung như sau: Hãy sắp xếp các câu sau theo thứ tự thích hợp về diễn biến trận Chi Lăng.
a. Kị binh ta nghênh chiến rồi giả vờ thua để nhử quân kị binh của địch vào ải.
b. Liễu Thăng bị chết, quân bộ theo sau cũng bị phục binh của ta tấn công.
c. Đạo quân của địch do Liễu Thăng cần đầu đến cửa ải Chi Lăng.
d. Khi quân địch vào ải, từ hai bên sườn núi quân ta bắn tên và phóng lao vào kẻ thù.
e. Hàng vạn quân Minh bị chết, số còn lại rút chạy. 
Tôi tiến hành theo các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK quan sát lược đồ, thảo luận nhóm đôi: sắp xếp các câu trên theo thứ tự thích hợp diễn biến trận Chi Lăng,
Bước 2: Yêu cầu trình bày các ý theo thứ tự diễn biến trận Chi Lăng (dựa vào nội dung các câu): 1em nêu câu hỏi, 1 em trả lời, nhóm khác nhận xét.
Bước 3: Gọi 1 số em trình bày tóm tắt lại diễn biến cuộc kháng chiến. 
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm trình bày đúng.
Vừa trình bày vừa chỉ lược đồ, giúp các em hứng thú trong học tập.
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong kĩ năng quan sát và phân tích qua tranh ảnh (làm bài tập trắc nghiệm) để hiểu và nhớ thời gian lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử.
Các bài Lịch sử lớp 4 đa số bài nào cũng có kênh hình minh họa giúp học sinh hình dung rõ hơn các sự kiện lịch sử của từng giai đoạn lịch sử. Giáo viên nắm vững kiến thức lịch sử để qua các hình ảnh giới thiệu cho học sinh. Các em bằng cặp mắt quan sát, óc phân tích của mình, các em sẽ mô tả, trình bày, nêu nội dung tranh, làm bài tập, từ đó giúp các em ghi nhớ sâu sắc những hình ảnh của lịch sử để lại.
Ví dụ bài: Trịnh – Nguyễn phân tranh . Các em quan sát lược đồ để biết được địa phận Bắc triều – Nam triều và Đàng Trong, Đàng Ngoài, sông Gianh là nơi chia cắt đất nước (thế kỉ XVI).
Bài : “Quang Trung đại phá quân Thanh (năm 1789)”. Yêu cầu dựa vào lược đồ hình 1 Hãy kể lại trận Ngọc Hồi, Đống Đa .
Bài: “Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40)” . Các em quan sát lược đồ hình 1 và nêu nội dung tranh (Vẽ cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi ra trận). 
Khi dạy bài: “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (năm 938)”. Sau khi học xong bài này, nhớ đến Ngô Quyền là nhớ ngay chiến thắng Bạch Đằng vang dội năm 938.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Ôn tập”: Để ôn lại kiến thức đã học giúp các em nhớ lâu sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử, cho học sinh làm bài sau: 
Nối mỗi sự kiện ở cột A với tên một nhân vật lịch sử ở cột B sao cho đúng: 
A
B
a. Chiến thắng Bạch Đằng (năm 938).
1. Đinh Bộ Lĩnh
b. Dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước.
2. Lý Thường Kiệt
c. Dời đô ra Thăng Long.
3. Ngô Quyền
d. Xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt
4. Lý Thái Tổ
Tôi tiến hành theo các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học, thảo luận nhóm đôi: Nối mỗi sự kiện ở cột A với tên một nhân vật lịch sử ở cột B. 
Bước 2: Yêu cầu các nhóm trình bày từng ý, nhóm khác nhận xét.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương chung.
Với cách làm này giúp học sinh nhớ lâu những sự kiện lịch sử nối liền với những nhân vật lịch sử tiêu biểu.
* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh qua các hình thức tự học tập và đánh giá. 
Muốn học sinh nhớ lâu và không bị sai lệch thời gian, nhân vật, sự kiện lịch sử thì giáo viên phải tổ chức nhiều hình thức học tập, các hình thức vừa mang tính khoa học, mềm dẻo, vừa mang tính thực tế sâu sắc. Phối hợp các hình thức khác nhau để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Phát huy tính độc lập suy nghĩ, sáng tạo, mạnh dạn trình bày ý kiến riêng, hăng hái và biết bảo vệ ý kiến của mình đồng thời biết lắng nghe ý kiến người khác, chia sẻ, hợp tác công việc với bạn.
Ví dụ bài: “Nước ta cuối thời Trần”.
Câu hỏi giữa bài: Tình hình nước ta cuối thời Trần như thế nào ? 
Giáo viên cho học sinh làm bài tập : Viết tiếp vào chỗ chấm trong các câu sau đây cho đủ ý về tình hình nước ta cuối thời Trần:
 	- Vua quan ................ (1).
 	- Những kẻ có quyền thế.... (2) của dân để làm giàu.
 	- Đời sống của nhân dân.(3).
(Từ cần điền: ngang nhiên vơ vét; vô cùng cực khổ; ăn chơi sa đọa).
Tôi tiến hành theo các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, suy nghĩ tìm từ thích hợp để điền vào chỗ .
Bước 2: Yêu cầu trình bày các ý, các em khác nhận xét.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương học sinh làm đúng.
Cách học này giúp các em nhớ lâu, nhớ chính xác sự kiện lịch sử đã diễn ra. Tạo cho các em ý thức học tập tích cực.
Hay bài: “Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long (năm 1786)”.
Câu hỏi: Nghĩa quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc khi nào ? Ai là người chỉ huy ? Mục đích của cuộc tiến quân là gì ? 
Giáo viên chuẩn bị nội dung bài tập vào bảng phụ như sau :
a. Nghĩa quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc vào năm 1771. Do Nguyễn Huệ tổng chỉ huy để tiêu diệt chúa Trịnh, thống nhất giang sơn.
b. Nghĩa quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc vào năm 1786. Do Nguyễn Nhạc tổng chỉ huy để lật đổ chính quyền họ Trịnh.
c. Nghĩa quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc vào năm 1786. Do Nguyễn Huệ tổng chỉ huy để lật đổ chính quyền họ Trịnh, thống nhất giang sơn.
Tôi tiến hành các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, suy nghĩ chọn ý trả lời đúng và viết chữ cái a ( b, c ) vào bảng con. 
Bước 2: Yêu cầu dơ bảng, nhận xét bài làm.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương học sinh làm đúng.
Cách học này khuyến khích các em giải thích lí do tại sao sai, giúp học sinh tự tìm ra kiến thức, ghi nhớ kiến thức đã học.
Khi dạy bài: “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long” .
Câu hỏi ở giữa bài : Vua Lý Thái Tổ suy nghĩ như thế nào mà quyết định dời đô về thành Đại La.
Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi như sau : 
Điền từ thích hợp ( dân cư không khổ; ở trung tâm đất nước; cuộc sống ấm no ; từ miền núi chật hẹp) vào chỗ trống để hoàn chỉnh đoạn văn nói về suy nghĩ của vua Lý Thái Tổ khi quyết định dời đô về thành Đại La.
Vua thấy đây là vùng đất ........................ (1) đất rộng lại bằng phẳng ......................... (2) vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Càng nghĩ, vua càng tin rằng muốn cho con cháu đời sau xây dựng được ..................................... (3) thì phải dời đô .............................. (4) Hoa Lư về vùng đất đồng bằng rộng lớn màu mỡ này.
Các bước tiến hành: 
Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc kênh chữ SGK, thảo luận nhóm đôi suy nghĩ tìm từ thích hợp điền vào chỗ .sao cho phù hợp
Bước 2: Yêu cầu trình bày các ý, các em khác nhận xét.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm làm đúng.
Cách học này tạo cho các em ý thức học tập tích cực.
Hoặc bài: “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân”. 
Để học sinh trả lời đúng câu hỏi giữa bài và ghi nhớ những việc Đinh Bộ Lĩnh đã làm được. Tôi xây dựng câu hỏi như sau:
Những việc Đinh Bộ Lĩnh đã làm được là: 
a. Thống nhất giang sơn lên ngôi Hoàng Đế.
b. Chấm dứt thời kì đô hộ phong kiến phương bắc, mở đầu cho thời kì độc lập dân tộc lâu dài của đất nước ta.
c. Đánh tan quân xâm lược Nam Hán.
d. Đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Tôi tiến hành các bước sau: 
Bước 1: Yêu cầu đọc kênh chữ SGK, thảo luận nhóm đôi suy nghĩ tìm ý đúng.
Bước 2: Yêu cầu trình bày các ý, các em khác nhận xét.
Bước 3: Nhận xét, tuyên dương nhóm làm đúng.
Cách làm này kích thích trí óc tìm kiếm suy luận, tư duy tưởng tượng của học sinh giúp các em nhớ lại, nhớ lâu, nhớ chính xác các sự kiện lịch sử đã diễn ra. Tạo cho các em ý thức học tập tích cực tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
Và còn vận dụng nhiều phương pháp khác nữa, nó đem lại cho các em lòng say mê ham thích tìm hiểu môn Lịch sử. Điều quan trọng đối với học sinh là gợi cho các em các sự kiện, nhân vật lịch sử có liên quan gần gũi với cuộc sống của các em. Vì vậy, cần thường xuyên gắn nội dung lịch sử với tên đườ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_lu.doc