2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn
sinh 8 ở trường THCS” đã đưa ra được một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất
lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học 8, đã xác định được tư
tưởng cho học sinh làm cho học sinh yên tâm và có hứng thú trong học tập, không còn
xem môn sinh là môn phụ. Đã biết tích hợp bộ môn mình với bộ môn khác đặc biệt là
môn toán, môn lý, môn mỹ thuật để tăng thêm hứng thú và sự say mê học tập cho học
sinh .
Đề tài còn nêu lên được việc đổi mới cách dạy của thầy và đổi mới cách học của
trò nhằm góp phần tích cực vào việc thực hiện Nghị quyết số: 29-NQ/TW ngày 04
tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
ồi dưỡng dưỡng hằng ngày, việc thực hiện bài tập về nhà, việc chuẩn bị bài mới. Việc lựa chọn đúng không chỉ nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, mà còn tránh bỏ sót học sinh giỏi và không bị quá sức đối với những em không có tố chất. Biện pháp 2 : Xác định tư tưởng để học sinh yên tâm và có hứng thú học tập bồi dưỡng bộ môn. Như phần trên tôi đã nêu, đối tượng học sinh tôi bồi dưỡng đa số là học sinh không có sự hứng thú và đam mê đối với bộ môn, các em xem môn sinh là môn phụ, có tư tưởng đứng núi này trong núi nọ tìm cách để chuyển môn bồi dưỡng. Vì vậy giáo viên phải tích cực động viên, xác định tư tưởng để các em thấy được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học: như là hiện nay đời sống con người ngày càng cao nhu cầu về sức khoẻ ngày càng lớn do đó đòi hỏi phải có Bác sĩ giỏi mà muối thi Bác sĩ phải học 3 môn trong đó không thể thiếu được bộ môn sinh học ... Ngoài việc xác định rõ tư tưởng cho các em bản thân tôi còn phải đổi mới cách dạy tạo ra sự hứng thú, tính tò mò cho các em, tạo niềm vui cho các em khi được học bồi dưỡng môn sinh học 8 ; Đồng thời bản thân tôi đã giúp cho các em có cách học mới giúp cho các em tự tin hơn, chủ động, sáng tạo hơn trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới, ...từ đó các em có yên tâm và có hứng thú trong học tập hơn. Mặt khác giáo viên bồi dưỡng phải tham mưu cho ban giám hiệu nhà trường, GVCN, các giáo viên cùng bộ môn và các bộ môn khác để làm tốt công tác tư tưởng cho các em. Biện pháp 3 :Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng một cách cụ thể tránh tình trạng thích đâu dạy đó và biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng cụ thể chi tiết cho từng chuyên đề, từng mảng kiến thức( Theo tôi dạy theo chuyên đề là biện pháp hữu ích nhất ). Đầu năm học, giáo viên phải quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với đặc trưng bộ môn và tình hình dạy học của đơn vị. Để làm được điều đó, tôi dựa vào các căn cứ như sau: Căn cứ vào kế hoạch thi học sinh giỏi của phòng, kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi tổng thể của nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với tình hình đơn vị, thời gian dạy học chính khóa và dung lượng kiến thức cần đạt trong bồi SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 8 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY dưỡng. Kế hoạch phải mang tính định hướng và mục tiêu yêu cầu cần đạt trong và kết thúc quá trình bồi dưỡng, kết quả dự thi. Hiện nay có rất nhiều sách nâng cao và tài liệu bồi dưỡng của phòng phát hành, các tài liệu tham khảo, đề thi học sinh giỏi các năm trước, ngườn tài liệu ở trên mạng .... song chương trình bồi dưỡng chưa có sách hướng dẫn chi tiết, cụ thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khoá. Vì thế soạn thảo chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt. Giáo viên cần biên soạn nội dung bồi dưỡng dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương trình học chính khoá, tiến dần tới chương trình nâng cao (tức là trước hết phải khắc sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khóa, từ đó vận dụng để mở rộng và nâng cao dần). Cần soạn thảo chương trình từ cơ bản tới nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp để các em học sinh bắt nhịp dần. Đồng thời phải có ôn tập củng cố, kiểm tra, rút kinh nghiệm qua mỗi bài kiểm tra. Không nên xây dựng chương trình như sách giáo khoa nâng cao hiện nay vì như thế học sinh khó nắm chắc kiến thức, dễ nhầm lẫn. Mặt khác trong sách nâng cao số lượng kiến thức nâng cao quá nhiều nếu lạm dụng sẽ ôm đồm, làm học sinh hoang mang bởi quá nhiều kiến thức không biết nắm kiến thức nào bỏ kiến thức nào ... Một số tiết ôn tập, giáo viên bồi dưỡng cần giúp các em tổng hợp các kiến thức, các dạng bài, các phương pháp giải bài tập theo từng chuyên đề theo hệ thống. Vì hầu hết các em chưa tự mình hệ thống được kiến thức mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Điều cần thiết, giáo viên đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc rút, soạn thảo cô động nội dung chương trình bồi dưỡng. (Cần lưu ý : Tùy thuộc vào thời gian bồi dưỡng, khả năng tiếp thu của học sinh mà mức độ kiến thức cao hay thấp, số lượng bài khó và ôn tập củng cố kiểm tra nhiều hay ít) Biện pháp 4 : GV Chuẩn bị bài ( soạn bài ) chu đáo cho việc bồi dưỡng và phải xác định rõ trọng tâm kiến thức cho từng buổi, từng tiết để tránh trùng lặp. Công tác soạn bài có tầm quan trọng đặc biệt. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của một tiết trên lớp. Nó chính là bản hướng dẫn hành động cho người giáo viên. Do vậy, không được xem thường, qua loa, máy móc, xa rời đối tượng học sinh. Phải tận dụng điều kiện thiết bị dạy học hiện có để giúp các em quan sát trực quan, khắc sâu thêm kiến thức. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 9 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY Trong bài soạn phải thể hiện rõ được phương pháp dạy của giáo viên (hướng dẫn, điều khiển hoạt động học tập của học sinh theo hướng tích cực và thể hiện rõ hoạt động của học sinh (học sinh tích cực chủ động hoạt động, tự nghiên cứu và tìm ra kiến thức dưới sự điều khiển của giáo viên, của nhóm, ...). Ngoài ra trong soạn bài tôi còn đặc biệt chú ý lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học minh họa, tài liệu tham khảo giúp các em khám phá cái mới, mở rộng kiến thức hoặc củng cố và khắc sâu kiến thức cho các em sau mỗi buổi bồi dưỡng tạo cho các em hứng thú hơn khi được bồi dưỡng môn sinh.... Biện pháp 5 : Lựa chọn, kết hợp và sử dụng phương pháp bồi dưỡng phù hợp với nội dung chuyên đề bồi dưỡng. Môn sinh học 8 (môn cơ thể người và vệ sinh) là môn khoa học thực nghiệm mà phương pháp nghiên cứu chủ yếu là quan sát và thí nghiệm (Thực nghiệm). Như chúng ta đã biết, con người có nguồn gốc động vật, thuộc lớp Thú nên cấu tạo cơ thể và các hoạt động sinh lí về đại thể giống với động vật thuộc lớp Thú. Do đó người ta thường tìm hiểu cấu tạo và hoạt động sinh lí của phần lớn các cơ quan, hệ cơ quan trên cơ thể động vật để hiểu về con người. Vì thế, trong dạy học, bồi dưỡng bộ môn này khi có điều kiện sẵn mẫu vật tự nhiên (tim, phổi, thận, não...) mà giáo viên hay học sinh có được, có thể cho học sinh quan sát các mẫu vật đó để tìm hiểu hình thái (màu sắc, hình dạng, kích thước), giải phẩu (cấu tạo bên trong các cơ quan và cơ thể) kết hợp với tranh vẽ, mô hình cơ quan, hệ cơ quan của người để so sánh, đối chiếu từ đó giúp học sinh ghi nhớ kĩ hơn và chính xác hơn. Ngoài tác dụng về mặt nhận thức, các phương pháp đặc trưng này còn rèn luyện, tập dượt cho học sinh phương pháp nghiên cứu, giúp các em phát triển tư duy khoa học, tác phong cẩn thận, chính xác và có lòng say mê tìm hiểu nghiên cứu . Con người là đối tượng nghiên cứu của môn sinh học 8, là đối tượng rất gần gũi với các em, là chính bản thân các em, là bạn bè thân thiết xung quanh các em là một phương tiện trực quan sống cần được khai thác trong quá trình dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu. Chẳng hạn, mắt với màng giác, mống mắt, con ngươi; lưỡi với các gai vị giác, da với các sản phẩm của da (lông, móng); tai ngoài các chi, xương đai, các loại khớp, các bắp cơ có thể quan sát trực tiếp trên cơ thể mình hoặc bạn. Do đó có thể khai thác những vốn hiểu biết của các em về các cơ quan, bộ phận cơ thể người, vào quá trình dạy học. Giáo viên có thể dùng phương pháp hỏi - đáp gợi mở từ thực tế các bộ phận cơ thể để các em dễ nhớ, dễ vận dụng và nắm chắc hơn. Hoặc về phía học sinh có thể dùng những hiểu biết khoa học để tìm hiểu, giải thích những hiện tượng SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 10 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY thường gặp trong đời sống. Chẳng hạn, vì sao máu người có màu đỏ, vì sao người say rượu thường có biểu hiện chân nam đá chân chiêu trong lúc đi, vì sao ta nhai cơm lâu trong miệng lại có cảm giác ngọt ........ Học sinh lớp 8 là học sinh có độ tuổi từ 13-14 tuổi. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của lứa tuổi này rất thất thường. Vì ở lứa tuổi này học sinh đang bước vào lứa tuổi dậy thì, giai đoạn quá độ chuyển từ thiếu niên sang thanh niên, cơ thể phát triển mạnh về kích thước và thể lực, đồng thời có những chuyển biến mạnh về mặt sinh lí. Do đó các em thích tìm hiểu về bản thân, hay tò mò, ham hiểu biết, thích tìm tòi cái mới, muốn khẳng định mình, các em tự cho mình là người lớn và cũng muốn mình được coi là người lớn, muốn được tham gia vào các hoạt động một cách độc lâp, muốn thử sức mình. Tuy nhiên mức độ phát triển của hệ thần kinh chưa đạt đến sự hoàn thiện, do đó các em chóng mệt mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang trạng thái ức chế khi phải tiếp thu bài một cách thụ động, kém hào hứng. Vì thế khi sử dụng những phương pháp dạy học theo chuyên đề phải giúp các em động não và tích cực hoá hoạt động học tập của các em để học tập đạt kết quả cao . Sự thành công của việc bồi dưỡng phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy học mà giáo viên lựa chọn. Do đó trong quá trình bồi dưỡng để đạt kết quả cao trong bồi dưỡng tôi thường lựa chọn, kết hợp sử dụng những phương pháp sau : - Phương pháp hỏi đáp, tạo tình huống giải quyết vấn đề. Giáo viên dùng lời nói để dẫn dắt, giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi kiến thức cần nghiên cứu. Giáo viên đưa ra tình huống cho học sinh giải quyết vấn đề. Đây là một trong những phương pháp phổ biến và đặc trưng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Ví dụ : khi ôn tập nội dung về các loại mô, tôi cho học sinh có thời gian để ghi nhớ đặc điểm của các loại mô. Tôi đặt câu hỏi : Trong cơ thể người có mấy loại mô chính nào ? Em hãy lập bảng so sánh các loại mô đó về cấu tạo và chức năng ? Học sinh trình bày : - Có 4 loại mô chính : Mô biểu bì, mô liên kết, mô cơ, mô thần kinh. - So sánh các loại mô : Mô biểu bì Mô liên kết Mô cơ Mô thần kinh Đặc điểm cấu tạo Tế bào xếp xít nhau Tế bào nằm trong chất nền Tế bào dài, xếp thành lớp ,thành bó Noron có thân nối với sợi trục và sợi nhánh SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 11 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY Chức năng Bảo vệ, hấp thụ, tiết ( mô sinh sản làm nhiệm vụ sinh sản) Nâng đỡ ( máu vận chuyển các chất) Co, dãn tạo nên sự vận động của các cơ quan và vận động của cơ thể - Tiếp nhận kích thích - Dẫn truyền xung thần kinh - Xử lí thông tin, điều hòa các hoạt động các cơ quan Sau khi học sinh trình bày xong kết quả, tôi nhận xét bổ sung và nêu câu hỏi vận dụng: Máu thuộc loại mô gì ? Vì sao xếp máu vào loại mô đó ? Học sinh vận dụng kiến thức và trả lời, giáo viên nhận xét và khẳng định lại : - Máu thuộc mô liên kết . - Nếu quan niệm huyết tương của máu là chất nền và xét về nguồn gốc các tế bào máu được tạo ra từ các tế bào giống như nguồn gốc tế bào sụn, xương thì có thể xếp máu thuộc mô liên kết. Ngoài câu hỏi vận dụng trên, tôi còn nêu lên một số câu hỏi khác như : Nêu điểm giống nhau và khác nhau giữa mô mỡ và mô máu về cấu tạo và chức năng ? Học sinh trả lời và tôi nhận xét bổ sung thêm. Phương pháp vấn đáp, tạo tình huống giải quyết vấn đề là phương pháp phổ biến nhất trong dạy học bồi dưỡng. Phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện, bao quát được nhiều lượng kiến thức cần bồi dưỡng trong cùng một đơn vị thời gian. Rèn luyện kĩ năng liên hệ, vận dụng của học sinh để giải quyết các bài tập. - Phương pháp trực quan. Là phương pháp sử dụng phương tiện trực quan như mô hình, mẫu vật thật, tranh ảnh giúp các em đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Hiện tại mẫu vật và tranh ảnh về bộ môn sinh 8 ở các trường học khá đầy đủ. Tôi đã vận dụng những thiết bị sẵn có này để giúp học sinh nắm rõ kiến thức, khắc sâu thêm kiến thức trong quá trình bồi dưỡng. - Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát, phát triển tư duy cho học sinh. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 12 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY - Hình vẽ trong sách giáo khoa cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức. Ví dụ : Khi bồi dưỡng kiến thức các cơ quan trong hệ hô hấp, tôi đưa ra tranh cấu tạo tổng thể hệ hô hấp của người cho học sinh quan sát, nhớ lại kiến thức cấu tạo của hệ hô hấp, các bộ phận của đường dẫn khí, 2 lá phổi và chức năng của đường dẫn khí và hai lá phổi. Sau đó giáo viên đưa ra câu hỏi : Dựa vào tranh 20. 2 Cấu tạo tổng thể hệ hô hấp của người hãy nêu cấu tạo của hệ hô hấp và kể tên các bộ phận thuộc đường dẫn khí, hai lá phổi. Dựa vào cấu tạo và liên hệ thực tế nêu chức năng của đường dẫn khí và hai lá phổi . Học sinh lên bảng chỉ vào tranh và trình bày : Hệ hô hấp gồm các cơ quan ở đường dẫn khí và hai lá phổi + Các cơ quan của đường dẫn khí gồm : Mũi, Họng, Thanh quản, hí quản, phế quản. + Hai lá phổi : Lá phổi phải có 3 thuỳ, lá phổi trái có hai thuỳ. Chức năng của đường dẫn khí là : Dẫn khí vào và ra ; làm ẩm, làm ấm không khí đi vào và bảo vệ phổi khỏi các tác nhân có hại . Chức năng của phổi : là nơi trao đổi khí giữa môi trường ngoài với máu trong mao mạch phổi. Ở chuyên đề hệ tiêu hoá, hệ thần kinh, hệ bài tiếttôi cũng sử dụng tranh vẽ các cơ quan của ống tiêu hoá, bộ não, tủy sống, thậncó sẵn ở phòng thiết bị để giúp học sinh hệ thống hóa lại kiến thức theo tranh vẽ và ghi nhớ khắc sâu. - Phương pháp dạy học theo bản đồ tư duy Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. - Bạn hãy tưởng tượng tới một chú bạch tuộc có thân ở giữa và những chiếc súc tua (vòi) xung quanh. Những chiếc tua này kiếm mồi nuôi sống toàn bộ cơ thể bạch tuộc. BĐTD gồm 1 vấn đề lớn đặt ở trung tâm và các nhánh ý tưởng toả ra xung quanh. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 13 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY - BĐTD có ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, chỉ cần chúng ta chú ý: Một bông hoa với nhuỵ ở trung tâm và rất nhiều cánh vòng quanh. Một cây gỗ có những cành và lá tạo thành tán rộng. * Ưu điểm của BĐTD: - Kiến thức được trình bày cô đọng tổng quát, các nội dung được hệ thống liên kết với nhau, sử dụng hình ảnh, màu sắc sinh động, toàn bộ ý của sơ đồ có thể "nhìn thấy" phát huy tối đa tiềm năng tư duy, ghi nhớ của bộ não, giúp HS hiểu và nhớ lâu bài học, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp dạy học. - Tiết kiệm thời gian vì nó chỉ tận dụng các từ khóa. - BĐTD là sơ đồ mở, việc thiết kế không yêu cầu khắt khe chi tiết như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ 1 kiểu khác nhau, kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh. - Phương tiện thiết kế bản đồ tư duy khá đơn giản, dễ tìm, kinh tế: giấy, bìa, bảng phụ, bút chì màu, phấn màu hoặc dùng phần mềm có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường hiện nay . - Phát triển năng khiếu hội họa, sở thích mỗi người, được tự do chọn màu sắc, đường nét, tự sáng tác nên những BĐTD, thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày của từng cá nhân nên càng yêu quý vá trân trọng “ tác phẩm trí tuệ” của mình. - Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. - Sử dụng BĐTD trong dạy học nhóm đã phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. BĐTD tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn. học sinh có thể tương tác với bạn học của mình và với Giáo viên. - Qua hoạt động thuyết trình BĐTD vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh nước ta hiện nay. - Mặt khác, dạy học bằng BĐTD giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 14 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY Tóm lại dạy học dựa trên bản đồ tư giúp học nắm bài học có hệ thống và đảm bảo tính logic cao. Giúp giáo viên trình bày bảng khoa học và ngắn gọn. Sử dụng bản đồ tư duy trong bồi dưỡng học sinh giỏi có tác dụng tích cực trong việc hệ thống hóa kiến thức cũng như phát triển ý tưởng của học sinh trong quá trình học tập. Ví dụ: Sau khi kết thúc chuyên đề hệ tiêu hoá tôi dùng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa lại kiến thức, cụ thể là thể hiện mảng kiến thức về tiêu hoá và các cơ quan tiêu hoá như sau: SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GV : NGUYỄN THỊ MỸ HIỀN - 15 – TRƯỜNG THCS SƠN THỦY Các phương pháp này phát huy được tính tự giác, tính tích cực, tự lực, tính chủ động, sáng tạo, học sinh tự giành lấy kiến thức dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, iến thức thu được sẽ trở thành tài sản riêng của các em.Vì vậy các em nắm bài sâu và nắm chắc hơn.Ngoài ra, còn gây được hứng thú nhận thức rất lớn đối với các em, mà hứng thú là yếu tố tâm lý ban đầu có tác dụng tíc cực đối với quá trình nhận thức của học sinh. Qua quá trình bồi dưỡng cũng như giảng dạy trên lớp tôi rút ra một điều thì dù lựa chọn và kết hợp các phương pháp dạy học nào đi chăng nữa thì nghệ thuật sư phạm( nghệ thuật khen – chê đúng lúc) là một điều không thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng vì nhờ nghệ thuật sư phạm mà tiết dạy sẽ được nhẹ nhàng hơn, thân thiện hơn, để thay thế bởi sự quát nạt, mắng mỏ học sinh trong quá trình dạy học. Có như thế mới tạo được sự mạnh dạn, hứng thú học tập bộ môn, tạo nên được lòng ham thích,và đam mê bộ môn. Ví dụ : Khi chúng ta nêu một câu hỏi mà học sinh không trả lời được, lúc này học sinh đang đứng trước một áp lực rất lớn, đó là không biết cô sẽ xử sự với mình như thế nào đây ? chắc là mình bị 0 điểm rồi. Nếu lúc này giáo viên chúng ta không có nghệ thuật thì giáo viên chúng ta vô tình làm mất đi niềm đam mê của học sinh đối với bộ môn ( em không học bài cô cho 0 điểm, em như thế này như thế kia (chê học sinh ...), chúng ta thay bằng những lời chê này bằng tình yêu thương học sinh đó là giáo viên tìm hiểu nguyên nhân vì sao em không thuộc bài (không trả lời được) và mình phải tin vào lý do đó dù là chưa chắc hẳn là như thế để cho các em có cơ hội chuộc lỗi, sau đó giáo viên đưa ra một yêu cầu mới mà chắc chắn học sinh đó sẽ đáp ứng được chứ đừng chọn yêu cầu cao có như vậy học sinh mới tự tin vào khả năng của mình không bất mản vào giáo viên và bộ môn mà mình đang học mà càng ngày càng yêu thích bộ môn hơn.(câu hỏi thường dùng của tôi khi gặp trường hợp này: Em hãy nêu cho cô kiến thức bất kỳ của môn sinh học 8 mà em biết, thì lúc này học sinh rất phấn khởi nhớ lại những kiến thức đã học ở các tiết trước để trả lời ). Cuối cùng giáo viên phải xử phạt phân minh : bây giờ cô trừ em 1 điểm hoặc nhiều hơn tuỳ giáo viên vì em không thực hiện ngay yêu cầu thứ nhất mà em thực hiện yêu cầu thứ 2 do đó em bị trừ điểm. Qua đây học sinh rút ra được một bài học là phải học bài chuyên cần để được điểm cao nếu không sẽ bị trừ điểm và từ đó học sinh sẽ say mê học bài củ hơn, đam mê đối với bộ môn hơn và
Tài liệu đính kèm: