A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn sáng kiến:
“ Chúng ta không thể dạy bảo cho ai bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp
họ phát hiện ra những gì còn tiềm ẩn trong họ.” (Galileo) Đó cũng chính là điểm
khác của giáo dục hiện nay so với giáo dục truyền thống. Đặc biệt, trong chương
trình giáo dục phổ thông mới, việc chú trọng phát triển năng lực cho học sinh được
đặt lên hàng đầu. Bước sang thế kỉ 21, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức
nhanh chóng với những biến đổi liên tục và sự tăng khối lượng tri thức một cách
nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực thông tin truyền thông, công nghệ vật
liệu, điện tử tự động hóa, phương pháp tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Để
chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống,
vai trò của giáo dục ngày càng trở nên quan trọng. Ngoài việc trang bị kến thức,
giáo viên cần phải đào tạo một thể hế hệ trẻ có đủ năng lực và phẩm chất cơ bản.
Trong đó, việc hình thành và nâng cao năng lực cho học sinh là điều hết sức cần
thiết. Chúng ta đều thừa nhận rằng, mỗi học sinh là một cá thể độc lập với sự khác
biệt về năng lực, trình độ, sở thích, nhu cầu và nền tảng xuất thân. Dạy học phát triển
năng lực thừa nhận thực tế này và tìm ra được những cách tiếp cận phù hợp với mỗi
học sinh. Điều này cũng giúp học sinh thích ứng với những thay đổi của cuộc sống
trong tương lai. Giáo dục năng lực cho học sinh cho phép đẩy nhanh tốc độ hoàn
thành chương trình học, tiết kiệm thời gian và công sức của việc học tập. Đặc điểm
quan trọng nhất của việc hình thành năng lực là đo được “năng lực” của học sinh.
Năng lực của người học có thể chia thành hai loại chính: Đó là những năng lực
chung và năng lực cụ thể, chuyên biệt. Tuy nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây
chính là giáo dục học sinh nhằm phát trển các năng lực chung-năng lực cốt lõi, bao
gồm: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề ( theo Thông tư
22/2016/TT-BGDĐT).
Gia đình và nhà trường là hai môi trường học sinh Tiểu học được tiếp xúc
nhiều nhất, thường xuyên nhất trong cuộc sống của mình và đó cũng là những môi
trường ảnh hưởng nhiều nhất đến việc hình thành năng lực cho các em. Trong đó,
giáo dục trong nhà trường có vai trò quan trọng. Để đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam có
thể “ vươn mình” ra thế giới đòi hỏi những người đang “gieo mầm tri thức” như
chúng ta cần phải tìm hiểu, sáng tạo, linh hoạt trong phương pháp cũng như cách
thức tổ chức để giúp các em tự mình lĩnh hội tri thức. Là một giáo viên đang trực
tiếp giảng dạy học sinh lớp 5, qua thực tế tình hình học sinh lớp tôi chủ nhiệm, bố
mẹ đa số đầu tắt mặt tối với đồng áng, ít có thời gian theo sát con cái của mình. Vì
vậy, tôi muốn đi sâu tìm hiểu và thực hiện những biện pháp giáo dục năng lực cho
học sinh, giúp các em phát triển toàn diện trở thành những công dân có ích cho đất
nước. Đồng thời, bản thân tôi cũng có được những kinh nghiệm cho năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của mình để ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục. Quahơn một học kì thử nghiệm có hiệu quả, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “ Một số
biện pháp nâng cao năng lực cho học sinh lớp 5.”
không chỉ là kết quả của sự phát triển và giáo dục mà còn là kết quả hoạt động của các đặc điểm bẩm sinh hay còn gọi là năng khiếu. Năng lực đó là năng khiếu đã được phát triển, có năng khiếu chưa có nghĩa là nhất thiết sẽ biến thành năng lực. Muốn vậy phải có môi trường xung quanh tương ứng và phải có sự giáo dục có chủ đích. Trong các giáo trình tâm lý học các tác giả cũng đã đưa ra khá nhiều quan niệm về năng lực. Trong đó đa số đều quan niệm năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề vừa là kết quả của hoạt động, năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. Theo quan điểm của Tâm lý học Mác xít, năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt động của chính họ. Như vậy, khi nói đến năng lực thì không phải là một thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ) mà là sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này không phải phép cộng của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý này diễn ra mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong đó một thuộc tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai trò phụ thuộc) đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả mong muốn. Tóm lại, dựa trên quan niệm của nhiều tác giả đưa ra ở trên có thể định nghĩa như sau: “Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và khả năng hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống”. Các biểu hiện của năng lực được thể hiện cơ bản qua các nội dung sau: Tự phục vụ, tự quản: - HS tự vệ sinh thân thể, ăn, mặc gọn gàng sạch sẽ - HS tự chuẩn bị đồ dùng học tập cá nhân ở trên lớp, ở nhà. - HS tự giác hoàn thành công việc được giao đúng hạn. - HS chủ động khi thực hiện các nhiệm vụ học tập. - HS tự sắp xếp thời gian học tập, sinh hoạt cá nhân, vui chơi hợp lí. - HS tự sắp xếp thời gian làm các bài tập theo yêu cầu của giáo viên Hợp tác: - HS có kĩ năng giao tiếp, sẵn sàng giúp đỡ các bạn - HS tích cực tham gia vào các công việc ở nhóm/ tổ. - HS dễ làm quen, dễ dàng kết bạn. - HS biết nói lời cảm ơn khi người khác giúp mình một điều gì đó. - HS tích cực, tự giác hoàn thành công việc được nhóm giao đúng hẹn. - HS lắng nghe và dễ dàng thỏa thuận với các bạn trong nhóm Tự học và giải quyết vấn đề: - HS tự thực hiện được các nhiệm vụ học tập cá nhân, học tập theo nhóm - HS tự giác, chủ động hoàn thành các bài tập được giao đúng hẹn. - HS tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập để điều chỉnh việc học. - HS vận dụng điều đã học để giải quyết các vấn đề trong học tập. - Để giải quyết một vấn đề, HS thường cố gắng đến cùng. - HS chủ động nghĩ ra những cách khác nhau để giải quyết vấn đề Giáo viên cần nắm kĩ các biểu hiện của năng lực, từ đó có những kế hoạch, nội dung và phương pháp phù hợp để hình thành và nâng cao năng lực cho học sinh. Đồng thời, dựa trên các biểu hiện đó để đánh giá học sinh dễ dàng hơn. Biện pháp 2: Phân loại đối tượng năng lực học sinh để đưa ra các giải pháp giáo dục học sinh. Căn cứ vào tình hình chung của lớp sau một thời gian học tập, tôi đã tiến hành phân đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh đạt mức hoàn thành tốt, bao nhiêu em ở mức đạt và bao nhiêu học sinh cần cố gắng về năng lực. Để từ đó có biện pháp giáo dục các em, nâng cao trình độ đồng đều trong lớp. + Đối với những em còn chậm tiến bộ (đạt mức Cần cố gắng) thì xếp những em này ngồi ra đầu bàn, gần với em học hoàn thành tốt các môn học. Đặc biệt cần phát triển tư duy, nâng cao kiến thức bồi dưỡng năng lực học tập tốt cho học sinh. Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó, để học sinh có thể trả lời được. Tôi đã kịp thời khen, cho các bạn vỗ tay khen bạn. Từ đó phát huy được năng lực tự giác, tự tin trong giao tiếp, các em sẽ phát huy tính tích cực trong học tập, thích giơ tay phát biểu bài. Thường xuyên kiểm tra các em chậm chạp, rụt rè trong quá trình dạy trên lên lớp. Tích cực rèn các kĩ năng sống và kĩ năng giao tiếp cơ bản cho những em này như: biết chào hỏi thầy cô, người lớn tuổi, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi... Tôi thường xuyên cho học sinh hoạt động lồng ghép hoặc hoạt động ngoài giờ lên lớp, múa hát sân trường, tạo cơ hội giao tiếp cho các em. + Đối với học sinh có ý thức tự quản, tự phục vụ chưa cao. Tôi phải thường xuyên gặp gỡ phụ huynh trao đổi về tình hình học tập, sinh hoạt ở lớp cũng như ở nhà của các em. Đặc điểm của học sinh tiểu học là mau nhớ, nhanh quên nên việc rèn luyện cho các em cần được làm thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi. Vì thế, ngay đầu năm học, tôi đã đề cao công tác hình thành năng lực cho các em. Tôi luôn tạo cho các em tập nhiều thao tác mạnh dạn khi giao tiếp như: học sinh được luyện nói nhiều, thực hành giao tiếp, đóng vai,Rèn cho các em kĩ năng sống như: tự vệ sinh cá nhân, tự buộc tóc, tự soạn sách vởKĩ năng giải quyết mâu thuẫn. + Đối với một số ít học sinh hạn chế về năng lực, với những em học sinh thuộc gia đình ít quan tâm, họ không chú trọng đến việc học của con em mình, còn nuông chiều, cung phụng con cái khiến trẻ không có năng lực tự phục vụ. Tôi đã tạo cho các em học sinh này hình thành mối quan hệ thầy trò: tôi luôn là người đồng hành cùng học sinh thực hiện tốt những việc cần làm phục vụ bản thân. Tôi còn có lời nói cử chỉ nhẹ nhàng với những em học sinh thiếu tập trung, bài vở chưa tốt; cần phải nhắc nhở riêng từng em, từng đối tượng vào đúng thời điểm tránh làm các em thẹn, xấu hổ với các bạn trong lớp. Biện pháp 3: Nâng cao năng lực thông qua quá trình dạy học: Hình thành năng lực cho học sinh thông qua quá trình học tập. Bởi các em được tham gia vào các hoạt động trải nghiệm, cùng nhau tìm hiểu, trao đổi, tương tác, học hỏi lẫn nhau về kiến thức từ đó hình thành năng lực bằng việc các em tự nhận xét, tự đặt câu hỏi... Mỗi một môn học, giáo viên cần có phương pháp dạy học phù hợp để giúp các em hình thành tốt năng lực chuyên biệt của từng môn. Đồng thời, phát huy tối đa các phương pháp để hình thành các năng lực chung. Ví dụ: Khi dạy bài Chu vi hình tròn ( Sách Hướng dẫn học Toán 5- tập hai- trang 13), tôi đã hình thành năng lực cho các em như sau: + Hình thành nhóm năng lực tự phục vụ, tự quản: - Yêu cầu nhóm trưởng kiểm tra sự chuẩn bị đồ dùng học tập của bạn: ( chuẩn bị sách, vở, bút, thước, bìa cứng ). - Nhóm trưởng báo cáo trước lớp: Có bao nhiêu bạn chuẩn bị đầy đủ, có bao nhiêu bạn chuẩn bị chưa đầy đủ. - Yêu cầu học sinh tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau cụ thể: Bạn A,B (hoặc nhóm Hoa Mai, Hoa Lan,) đã tự chuẩn bị đồ dùng học tập của mình đầy đủ. - Tuyên dương: Từ báo cáo, phản ánh của các nhóm giáo viên phải tuyên dương kịp thời. Đối với những học sinh còn thiếu đồ dùng học tập hay chưa đủ sách vở thì giáo viên có các biện pháp kịp thời, động viên, khích lệ các em cố gắng tự hoàn thành các công việc học tập của mình như chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập để học tốt hơn. Từ đó hình thành năng lực tự phục vụ, tự quản cho các em. + Hình thành nhóm năng lực hợp tác: - Để hình thành năng lực hợp tác giáo viên phải hướng dẫn cụ thể, động viên các em mạnh dạn, trình bày rõ ràng, đúng nội dung cần trao đổi. - Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh trong lớp biết hợp tác trong học tập, cùng chia sẻ kết quả học tập, biết lắng nghe và biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Ví dụ ở hoạt động 1: Nhóm trưởng điều hành các bạn cùng thảo luận để tìm ra độ dài của đường tròn. Lần lượt các bạn trong nhóm sẽ đưa ra ý kiến của mình. Nhóm trưởng tổng hợp ý kiến của các bạn và đi đến thống nhất. - Thường xuyên tổ chức cho học sinh các trò chơi tập thể lành mạnh,các hoạt động văn nghệ, thể thao ngay tại lớp học của mình. Qua đó rèn cho học sinh năng lực tự tin trước đám đông, lắng nghe, hợp tác và trình bày ý kiến, sở thích, sở trường của mình. Ví dụ: Cũng trong hoạt động 1: Giáo viên sẽ cho các nhóm thi đua nhau, nhóm nào xong trước sẽ giành quyền chia sẻ trước lớp. Sau khi các nhóm còn lại hoàn thành, nhóm hoàn thành nhanh sẽ trình bày kết quả của nhóm mình, các nhóm khác lắng nghe và tương tác cùng nhóm bạn. - Trong các tiết học, giáo viên phải đưa ra hệ thống các câu hỏi nhằm phát huy tinh thần xây dựng bài, tinh thần tự giác học tập của học sinh. Các câu hỏi phải có sự phân hoá đối tượng để em nào cũng có cơ hội được trình bày. Ví dụ: Khi thực chia sẻ hoạt động 2, trình bày công thức tính chu vi, giáo viên sẽ đặt các câu hỏi phù hợp với từng đối tượng như học sinh tiếp thu chậm ( Em hãy cho biết kí hiệu d trong công thức có nghĩa là gì? Kí hiệu r là gì?)... - Trước khi vào tiết học, giáo viên tổ chức cho học sinh khởi động bằng một số hoạt động như: trò chơi, văn nghệ,... Thông qua hoạt động khởi động, học sinh vừa mạnh dạn, tự tin vừa thể hiện sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau để hoàn thành tốt yêu cầu giáo viên đưa ra. + Hình thành nhóm năng lực tự học và giải quyết vấn đề: - Yêu cầu học sinh tự làm cá nhân, sau đó chia sẻ với bạn cùng bàn/ nhóm về kết quả bài làm. Ví dụ: Ở hoạt động 3- Tính chu vi hình tròn: Các em sẽ tự làm bài tập của mình, sau đó chia sẻ với các bạn cùng bàn rồi mới chia sẻ trước lớp. - Yêu cầu: Báo cáo số học sinh làm bài tốt, số học sinh làm bài còn thiếu sót + Học sinh tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn ngay trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập. Việc tự đánh giá kết quả của mình, kết quả của bạn sẽ giúp các em vừa hoàn thành nhiệm vụ học tập, vừa phát triển năng lực tự học và giải quyết vấn đề học tập. Ví dụ: Sau khi đại diện cặp đôi chia sẻ hoạt động 3, các cặp đôi còn lại sẽ nhận xét xem kết quả bài làm của bạn so với mình như thế nào? Nếu khác thì mình sẽ nêu ý kiến bài làm của nhóm mình. - Để hình thành năng lực tự giải quyết vấn đề: giáo viên đưa ra các tình huống để học sinh giải quyết. Hướng dẫn nhóm trưởng cách điều hành các bạn trong nhóm thảo luận để cùng nhau giải quyết tình huống. Ví dụ: Ở hoạt động 1: Sau khi học sinh đã chia sẻ cách đo độ dài đường tròn để tính chu vi hình tròn bằng cách lăn hình tròn đó trên một cái thước, giáo viên sẽ đặt ra tình huống: giả sử cô có một sợi dây cuôn thành hình tròn, để tính chu vi hình tròn đó, không thể lăn được thì ta làm thế nào? Các nhóm sẽ thảo luận để tìm cách giải quyết ( Nếu nhóm nào tìm ra được là ta kéo thẳng sợi dây ra để đo độ dài sợi dây, chính là chu vi hình tròn thì giáo viên sẽ tuyên dương trước lớp. Nếu nhóm nào chưa tìm ra được giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở để hỗ trợ các em) - Giáo viên cần bao quát lớp, hoặc quan sát và đi từng nhóm để nắm tình hình xem nhóm nào cần sự hỗ trợ đồng thời hướng các em đánh giá năng lực tự giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó còn phải thường xuyên khích lệ các học sinh có những phát hiện hay, mới trong tiết học. Hướng các em cùng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập. Điều này giúp các em phát huy hết tố chất, năng lực học tập của mình.Trong các tiết học, ngoài việc tạo không khí học tập thoải mái, tạo hứng thú cho học sinh. Trường tôi đang dạy đang được áp dụng mô hình trường học mới – VNEN nên các hoạt động dạy học luôn tạo sự hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Ngoài ra, đối với các trường khác, hoặc một số bài ở các môn như Khoa học,.... chúng ta có thể áp dụng phương pháp dạy học: “ Bàn tay nặn bột” trong dạy học các môn học. Đây là phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm áp dụng cho việc giảng dạy “ Bàn tay nặn bột” là hình thành cho học sinh bằng việc các em tự nghiên cứu tìm ra câu trả lời cho các vấn đề thông qua làm thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu với một vấn đề được đặt ra, học sinh có thể tìm hiểu những hiểu biết ban đầu, tiến hành các phân tích, thảo luận rồi đưa ra kết quả phù hợp. Mặc dù phương pháp này không phải là mới, nhưng tính ưu việt của chúng trong việc phát huy năng lực của học sinh là rất cao. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức, học sinh lớp tôi còn được rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ đó mà năng lực: hợp tác, tự học và tự giải quyết vấn đề được nâng cao, các em đã biết vận dụng những điều đã học để giải quyết các nhiệm vụ học tập; trong cuộc sống, các em đã biết phát hiện ra những tình huống có mới liên quan và tìm cách giải quyết một cách triệt để. Biện pháp 4: Nâng cao năng lực thông qua hoạt động giáo dục tập thể. Các năng lực của học sinh không chỉ được hình thành trong hoạt động học tập và rèn luyện mà nó còn được hình thành nhiều ở các nội dung trong hoạt động giáo dục tập thể ( Sinh hoạt lớp, Chào cờ, Sinh hoạt Đội, Hoạt động trải nghiệm; Hoạt động giữa giờ) như: Rung chuông vàng, Hội khoẻ Phù Đổng, Câu lạc bộ Tiếng Anh; Giờ chào cờ lồng ghép dạy Tiếng Anh; Giờ sinh hoạt lớp theo chủ đề; Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề; tham quan thực tế;... Tham gia các hoạt động này sẽ giúp học sinh học tập các môn học dưới dạng hoạt động trải nghiệm là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành, học qua làm, học cách giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống ngay trong trường lớp. Đây là phương pháp ưu việt cho sự phát triển năng lực sáng tạo, giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, giá trị và phẩm chất của bản thân học sinh. Ví dụ: Chỉ đơn giản như tổ chức trò chơi kéo co giữa các lớp theo khối. Để chiến thắng trò chơi, ngoài sức mạnh, đòi hỏi các em phải phát huy tối đa năng lực hợp tác của đội mình. Từ đó, ai cũng tự ý thức được nếu mình không phối hợp ăn ý với bạn của mình thì chắc chắn sẽ thất bại. Hoặc khi hỗ trợ các em tham gia hoạt động giữa giờ như ca múa hát tập thể, tôi khích lệ, động viên các em còn chậm để các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Đồng thời cử các bạn tiếp thu nhanh đứng cạnh để hỗ trợ, giúp đỡ các bạn. Tham gia các buổi sinh hoạt dưới cờ vào mỗi thứ hai hàng tuần, biểu dương các tập thể, cá nhân, uốn nắn những thiếu sót và giới thiệu, định hướng những nội dung cần giáo dục cho học sinh và lồng ghép các chủ đề giáo dục kĩ năng sống. Với những chủ đề trên, tổ chức cho các em trao đổi, thảo luận, được phép trình bày quan điểm riêng của mình về chủ đề đó để giờ sinh hoạt trở nên hấp dẫn, hứng thú, qua đó giáo viên chủ nhiệm hiểu được suy nghĩ và hành động của học sinh trên mà có biện pháp giáo dục phù hợp để nâng cao năng lực cho các em. Ví dụ: Khi tham gia sinh hoạt dưới cờ tuần 14 với nội dung Tuyên truyền giáo dục giới tính và Bình đẳng giới, Tổng phụ trách Đội sẽ đặt một số câu hỏi liên quan đến chủ đề, tôi động viên các em mạnh dạn trả lời và đặt một số câu hỏi mình còn thắc mắc để các em hiểu sâu hơn về nội dung của tiết sinh hoạt và có ý thức trong việc kết bạn, giúp đỡ những bạn khác giới. Đặc biệt là nâng cao năng lực thông qua các hoạt động trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm có thể thực hiện theo quy mô lớn nhỏ tùy vào thời gian, điều kiện của nhà trường, của lớp học, của từng khối lớp cụ thể. Bản thân tôi đã áp dụng giải pháp này theo quy mô nhỏ bởi học sinh chủ yếu hoạt động trên lớp; tôi thường xuyên, liên tục tổ chức các hoạt động trải nghiệm giúp học sinh hình thành năng lực. Tôi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế và đưa ra được giải pháp cụ thể như sau: để các hoạt động trải nghiệm diễn ra thường xuyên ngay đầu năm tôi lên kế hoạch cụ thể cho hàng tuần, hàng tháng, trong năm rõ ràng. Ngay từ đầu năm, tôi bắt đầu cho các em trải nghiệm như: lần lượt gọi tên từng em lên giới thiệu bản thân, gia đình, sở thích để hình thành năng lực: giao tiếp; Hoặc các em trải nghiệm bằng hoạt động thi xếp sách vở trong ngăn bàn và trong cặp sách; phát huy tính nhanh, gọn, Tập cho học sinh trải nghiệm cách xử lý khi bị đứt tay, chân và cách xử lý khi bạn bị nạn Từ đó tôi đã hình thành được năng lực tự quản, tự phục vụ cho các em; biết xử lý các vấn đề có liên quan mà các em thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù những em này bố mẹ đi làm ăn xa, các em ở nhà với ông bà - với các bác. Hàng tuần, dựa theo quan sát của tôi và dựa vào nhận xét quan sát đánh giá của ban hội đồng tự quản lớp, nếu thấy năng lực nào của các em chưa tốt thì tôi giúp các em xây dựng kế hoạch tổ chức trải nghiệm lại cho tốt hơn, thành thạo hơn. Hàng tháng, dựa theo chủ điểm cụ thể tôi đã gợi ý học sinh trải nghiệm, lập chương trình hoạt động trải nghiệmThông qua đó mà ở lớp tôi chủ nhiệm các em luôn biết lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với nội dung; nắm được các bước cơ bản cần thực hiện, nắm được trách nhiệm của từng cá nhân khi tham gia hoạt động trải nghiệm. Tôi hướng cho học sinh lựa chọn nội dung trải nghiệm trong cả năm học dựa theo chủ điểm từng tháng, từng kì dựa vào điều kiện của mỗi cá nhân, của lớp. Ngay những ngày đầu đón nhận các em, tôi đã phát hiện có một số em nhận thức chậm, khả năng tự học - tự giải quyết vấn đề còn hạn chế, các kiến thức cơ bản còn nhiều lỗ hổng dẫn đến các em ngại đi học, chán học, Tôi đã sử dụng phương pháp tương tác nhóm “ Đôi bạn cùng tiến”, đã hướng dẫn cho các em nhận biết cách học, tự học, tự hợp tác với bạn bằng cách học nhóm, nhằm phát huy năng lực hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề. Ví dụ: Khi tổ chức tiết Sinh hoạt Đội với nội dung: “Nghe kể chuyện về nhà giáo”, sau khi nghe giáo viên kể chuyện, tôi đặt một số câu hỏi cho học sinh thảo luận ( như: Em có cảm nghĩ gì về người thầy trong câu chuyện trên? Em sẽ hành động như thế nào để bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với thầy cô giáo?....) mỗi thành viên trong nhóm lần lượt đưa ra ý kiến của bản thân về vấn đề này. Sau khi các nhóm đã nêu ý kiến xong, các thành viên của nhóm khác theo dõi và nêu nhận xét; tôi chốt kết quả đúng cho học sinh, góp ý và có cách sửa lỗi sai cụ thể cho các em. Chính điều này đã giúp học sinh lớp tôi nâng cao năng lực giao tiếp và hợp tác với các bạn trong nhóm học, trong lớp. Qua việc tổ chức cho học sinh trong lớp được trải nghiệm ở các giờ học trên lớp, ngoài lớp tôi còn thường xuyên phát huy năng lực tự học, tự đọc sách nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả tốt, bởi năng lực tự học của mỗi học sinh luôn được gắn liền với hoạt động chính của các em. Đặc biệt thông qua tiết sinh hoạt lớp, tôi luôn tạo điều kiện để các em phát huy năng lực của bản thân. Cụ thể: Hội đồng tự quản sẽ điều hành nội dung sinh hoạt lớp như tổ chức khởi động, mời các trưởng ban lên nhận xét, mời giáo viên phát biểu, tổ chức bình bầu bạn/nhóm xuất sắc nhất tuần, tổ chức thảo luận kế hoạch tuần tới dựa trên kế hoạch của giáo viên,... Giáo viên sẽ chỉ như một khách mời hoặc đưa ra trợ giúp khi cần thiết. Đây chính là cơ hội để các em nâng cao năng lực tự quản của mình cũng như năng lực hợp tác và tự giải quyết vấn đề. Như vậy, thông qua các hoạt động giáo dục tập thể, các em không những được hình thành năng lực tự chủ, năng lực hợp tác, năng lực tự giải quyết vấn đề mà còn phát triển được kĩ năng quan sát, kĩ năng phân tích, tổng hợp và kĩ năng trình bày kết quả hoạt động của mình cũng như năng cao phẩm chất, tạo điều kiện cho các em phát triển một cách toàn diện. Biện pháp 5: Nâng cao năng lực thông qua việc phối hợp tốt mối quan hệ giữa “gia đình – nhà trường – xã hội” Đây là mối quan hệ mật thiết và không thể thiếu được bởi hình thành và nâng cao năng lực học sinh không chỉ là công tác của giáo viên chủ nhiệm mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ, mầm non tương lai của đất nước. Vì vậy, trong quá trình làm công tác của nhiệm của mình, tôi luôn ý thức được sự cần thiết và tầm quan trọng trong mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viê
Tài liệu đính kèm: