1.Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày, đối với mỗi người chúng ta, ai cũng có rất
nhiều điều cần ghi nhớ và suy nghĩ. Bất kể 1 hình ảnh nào bạn vô tình nhìn thấy
hoặc một âm thanh, một giọng hát nào đó bạn nghe thấy, chúng đều được não bộ
của ta ghi nhận và lưu trữ trong đó. Ngày qua ngày, khi chúng ta ngày càng tiếp
thu thật nhiều thông tin thì não của chúng ta sẽ trở nên một mớ hỗn độn. Dần
dần, những thông tin mới ghi nhận hoặc những thông tin có ấn tượng đặc biệt
với chúng ta sẽ lấn át những thông tin mờ nhạt, khiến chúng ta thường xuyên
xảy ra tình trạng nhìn một người hay một vật nào đó rất quen mà không thể nhớ
ra được. Và vô số nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo,
internet, rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công
nghệ thông tin, chúng ta hàng ngày đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh
mông của thế giới trong mọi lĩnh vực. Để có thể thu nhận kiến thức khổng lồ đó
một cách dễ nhất, chính xác nhất, đòi hỏi phải có một phương pháp tư duy khoa
học.
Các em học sinh cũng vậy, mỗi ngày, các em đều phải đối mặt với vô số
lượng kiến thức mới từ toán, lý, hóa, đến các môn học thuộc như lịch sử, địa
lý,ngữ văn . Làm sao để có thể ghi nhớ toàn bộ kiến thức một cách rõ ràng,
chuẩn xác mà không tốn quá nhiều thời gian cho việc ngồi học thuộc từng câu,
từng chữ nhưng lại có thể khái quát được toàn bộ kiến thức và ghi nhớ lâu? Đó
là vấn đề đặt ra cho những người làm công tác dạy học. Trong công tác dạy học
nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho
học sinh, giáo viên cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực
và chủ động để lĩnh hội tri thức, giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu
để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để
tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây
dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại
những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy,
óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo
, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. 1.2 . Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học ngữ văn và những tiện ích của nó. * Có thể nói rằng đổi mới phương pháp dạy học( PPDH), phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới. Đặc biệt với bộ môn ngữ văn, là môn học giúp học sinh hoàn thiện nhân cách về cách ứng nhân xử thế, xúc cảm với cuộc đời và hơn hết là vai trò “sưởi ấm trái tim” và làm cho mỗi con người trên mảnh đất hình chữ S này càng xích lại gần nhau, sống vì nhau với tình cảm yêu thương nhất. Do đó, môn Văn cũng bắt nhịp với thời cuộc trong sự nghiệp đổi mới chung về các phương pháp dạy học tích cực; một biểu hiện cụ thể đó là: Sử dụng Sơ đồ tư duy (SĐTD) trong dạy học Ngữ văn . SĐTD kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo... Có thể khẳng định rằng phương pháp dạy học bằng SĐTD là một trong những phương pháp dạy học mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học hiện nay. Ngày nay với xu hướng dạy học lấy học sinh là trung tâm việc sử dụng Sơ đồ tư duy là công cụ lý tưởng cho việc dạy học và trình bày các khái niệm trong lớp học. Sơ đồ tư duy giúp giáo viên tập trung vào vấn đề cần trao đổi cho học Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 7/18 sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề mà không có thông tin thừa. Học sinh cũng được tiếp nhận tin một cách tổng quan và chính xác nhất phát huy khả năng nghe, nói, đọc, viết, chống chép văn mẫu rập khuôn, máy móc, không có tính sáng tạo, khuyến khích những suy nghĩ chân thực, cách trình bày sáng tạo của người học vì vậy mà hiệu quả của giờ dạy sẽ được tăng lên. *. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn: Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả, biết liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện. Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩyhoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind Map). Tóm lại, việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS: 1. Tăng sự hứng thú trong học tập. 2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy, ngôn ngữ của các em. 3. Tiết kiệm rất nhiều thời gian. 4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể. 5. Ghi nhớ tốt hơn. 6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 2. Cơ sở thực tiễn - Đối với môn Ngữ Văn THCS( gồm 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn) thì bản đồ tư duy giúp người dạy, người học xử lý tốt các văn bản tự sự, nghị luận, các bài Tiếng Việt, tổng kết chương... Bản đồ tư duy giúp cho các bài văn trở lên khoa học, mạch lạc, dễ nhớ, dễ thuộc, các bài học trong phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mang tính khái quát, hệ thống, khoa học, logic... Trong quá trình dạy Ngữ văn, nếu giáo viên (GV) xây dựng và sử dụng sơ đồ tư duy một cách hợp lý và sáng tạo các bài dạy học; tổ chức cho HS tham gia Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 8/18 các hoạt động học tập tích cực và hứng thú hơn để các em tự chiếm lĩnh kiến thức cho bản thân; giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ bản từ đó vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập và các tình huống trong cuộc sống... Mặt khác sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy còn giúp học sinh rèn luyện, phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh không chỉ trong học tập môn Ngữ văn mà còn trong các môn học khác và các vấn đề khác trong cuộc sống. Đó là cách “làm mới” nhẹ nhàng mà hiệu quả. Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy lôgíc cho HS. Với chủ trương giảm tải được thực hiện trong những năm gần đây thì phương pháp SĐTD rất hiệu quả vì cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn và trùng lặp mà tập trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. đã tạo cho các em cơ hội trình bày bài theo cách hiểu của mình, rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm và trình bày trước đám đông. Coi nó như một thiết bị dạy học hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học: sử dụng SĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, trong tấc cả các môn học đặc biệt là môn ngữ văn cấp THCS. Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, giáo viên có thể vận dụng nhiều loại hình phương pháp khác nhau. Trong đó, xây dựng và sử dụng bản đồ tư duy là một trong những phương pháp hữu hiệu mang lại thành công cho thày và trò qua mỗi bài học Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 9/18 II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 TRONG TRƯỜNG THCS 1. Thực trạng dạy và học Ngữ Văn lớp 9 trong nhà trường phổ thông. Đối với môn Ngữ văn lớp 9, thời lượng là 5 tiết/tuần. Trong đó thường dành 2 tiết cho dạy học văn bản, 1 tiết tiếng việt và 2 tiết tập làm văn. Thực tế dạy học nhiều năm, tôi nhận thấy: với một giáo viên có chuyên môn sâu thì giờ dạy học văn sẽ rất lí thú, học sinh rất thích lắng nghe. Nhưng một điều trở ngại lớn đối với học sinh là : phải học lý thuyết dài, viết dài, nhiều em ghi chép mà không hiểu nội dung...Tâm lí chung của học sinh là ngại học văn, ghi chép bài, viết bài làm văn... Trong các tiết ôn tập cũng vậy. Trước đây, các tiết ôn tập tiếng việt hay ôn tập phần văn bản một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Đặc biệt trong những giờ ôn luyện ngữ văn ôn thi vào lớp 10, hầu hết các em phải ghi chép nhiều mà không thể thuộc từng câu chữ, đó cũng gây tâm lí chán nản trong giờ học Ngữ văn. Thực tế cho thấy có rất nhiều em học sinh học môn văn bằng nhiều cách như học thuộc lòng, học vẹt, học một cách máy móc không nắm được kiến thức trọng tâm và không nắm được sự kiện nổi bật trong tài liệu, từ đó không biết liên tưởng các kiến thức với nhau. Với nhiều em học tập rất chăm chỉ nhưng thành tích vẫn không tiến bộ, gây nên tâm lí chán nản, mệt mỏi dễ bỏ cuộc. Mặt khác, một số học sinh có phương pháp học không đúng đắn, khi nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy cần phải rèn luyện được thói quen sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình học tập để giúp các em có tính độc lập, sáng tạo, phát triển tư duy một cách sâu sắc. Về phía giáo viên, qua dự giờ thăm lớp trong tổ nhóm chuyên môn, tôi nhận thấy một số thầy cô đã đưa bản đồ tư duy vào việc dạy học Ngữ Văn . Song chưa có hiệu quả, chưa gây được hứng thú cho học sinh vì phương pháp còn mang tính áp đặt, khuôn mẫu, hình thức còn đơn điệu, chưa có tính thẩm mĩ, chưa linh hoạt, sáng tạo. Chính điều đó là một trong những yếu tố làm cho giờ học không thành công. Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 10/18 2. Khảo sát thực trạng học sinh trước khi thực hiện đề tài * Về mức độ hiểu và thuộc bài ngay trên lớp - 21% số học sinh hiểu và thuộc bài ngay trên lớp. - 79 % HS còn mơ hồ, chưa hiểu thực sự, chưa nhớ sâu ( vì mải ghi chép nên không nghe giảng được) * Về mức độ hứng thú trong giờ học ngữ văn: - 12% số học sinh hứng thú - Số còn lại cảm thấy nhàm chán * Khi được hỏi nguyên nhân vì sao các em không hứng thú với môn văn, học sinh đều trả lời: - Do phải học dài, ghi chép dài, học cảm thấy buồn ngủ. - Số học sinh có hứng thú cơ bản là những em có năng khiếu môn văn - Số còn lại phải học là do thi cử, môn văn còn là môn nhân hệ số 2 khi thi vào lớp10 Kết luận: Ngữ văn là môn học mang tính nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ , vốn rất trừu tượng, giàu tính triết lí. Song không vì thế mà chúng ta chỉ tập trung truyền tải kiến thức cho học sinh mà quên mất việc dạy các em cách học sao cho hiệu quả. Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đó chính là định hướng cho tất cả GV trong nghề dạy học . Phương pháp dạy học, kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực đòi hỏi người học phải phát huy được năng lực vốn có của mình: năng lực ngôn ngữ, năng lực sáng tạo tư duy lô gic, không được áp đặt một cách máy móc, chủ quan, không kiểm tra theo kiểu học vẹt, học thuộc từng câu chữ. Do đó theo tôi áp dụng phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy thực sự mang lại hiệu quả,phù hợp với định hướng dạy học phát triển năng lực hiện nay. Song áp dụng như thế nào để không mất đi tính đặc trưng của bộ môn văn và mang lại hiệu quả cao nhất, tôi xin được trình bày cụ thể Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 11/18 III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ DẠY HỌC NGỮ VĂN SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY ĐẠT HIỆU QUẢ. 1. Trước hết giáo viên phải là người hiểu rõ vai trò của sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học. Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD- một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh)- SĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chươnglà điều rất cần thiết SĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và SĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình. SĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. 2. Sử dụng SĐTD để hỗ trợ trong quá trình dạy học: Trong quá trình dạy học, tôi sử dụng phương tiện này để hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau giờ học, hệ thống hóa kiến thức trong các tiết ôn tập, luyện thi 2-1. Dùng SĐTD để dạy bài mới: Trong dạy học văn, hình thành được ý tưởng là một vấn đề cực kì quan trong. Bởi bên cạnh việc nắm rõ các kiến thức cơ bản thì các ý tưởng sáng tạo luôn tạo nên chiều sâu và điểm độc đáo trong từng văn bản. Nếu như trong quá trình học tập trên lớp, giáo viên đưa ra một ý tưởng trung tâm hay còn gọi là từ khóa, học sinh dùng màu sắc, đường nét kết hợp với hình ảnh để phát triển thành những bản đồ tư duy khác nhau để thể hiện và đào Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 12/18 sâu ý tưởng, tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hoạt động tích cực của bản thân. Các em sẽ không ngừng tư duy, không ngừng hoạt động để biến những yếu tố vô hình trong tác phẩm thành những hình ảnh sinh động để có thể tri giác được. Bởi vậy sử dụng bản đồ tư duy trong quá tình dạy học bài mới sẽ giúp các em có thể mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. Việc sử dụng Sơ đồ tư duy cho dạy bài mới ít được giáo viên áp dụng. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy, sơ đồ tư duy chính là một phương tiện, một công cụ hỗ trợ rất đắc lực trong quá trình dạy- học. Việc kết hợp Sơ đồ tư duy trong quá trình ghi bảng, dạy học là vô cùng thuận lợi, đặc biệt với những bài khái quát tác giả, những tác phẩm dài, nhiều tình tiết, nhiều nhân vật và sự kiện. Việc sử dụng Sơ đồ tư duy cho cả bài dạy, hoặc cho một phần ( một nội dung) nào đó sẽ tạo nên một “gia vị” mới, tăng sức hấp dẫn của bài học, tạo hứng thú, khơi gợi trí tưởng tượng, sáng tạo của học sinh. Và cũng vì vậy mà các em sẽ có cách ghi bài khác lại, ghi bài bằng Sơ đồ tư duy. GV có thể sử dụng bản đồ tư duy cho cả tiết học ( nếu thấy cần thiết) hoặc có thể sử dụng cho phần ( nội dung) trọng tâm của bài Ví dụ: Khi dạy bài “ Bàn về đọc sách” tiết 91,92 Ngữ văn 9- tập 2,Tôi xác định trọng tâm của bài là phần 3: Những phương pháp đọc sách đúng. Do đó tôi chỉ sử dụng sơ đồ tư duy khi học phần này. Khi dạy mục 1, 2 tương ứng với các nội dung: Vai trò, ý nghĩa của việc đọc sách và những khó khăn của việc đọc sách ngày nay, tôi vẫn ghi bảng theo cách truyền thông, đến mục 3 tôi ghi bảng bằng sơ đồ tư duy. Bắt đầu từ khóa “ Phương pháp đọc sách” ( hình ảnh ở trung tâm), bằng hệ thống câu hỏi, tôi gợi mở để HS phát hiện các đơn vị kiến thức tương ứng với các nhánh chính ( gồm 2 nhánh chính): phương pháp chọn sách; phương pháp đọc sách. Từ 2 nhánh chính này, tôi tiếp tục dẫn dắt HS để phát triển thêm các nhánh phụ: đó là các đơn vị kiến thức làm nổi bật từ khóa đã nêu ở nhánh chính. ( Ảnh minh họa 1) Như vậy kết thúc bài học, tôi đã có sơ đồ tư duy trên bảng một cách khoa học, ngắn gọn rõ ràng và rất “ bắt mắt” bởi màu sắc và các đường cong. HS có thể tự “vẽ” vào vở của mình theo cách riêng hoặc ghi theo ý hiểu của các em. 2-2. Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học . Trong phương pháp dạy học tích cực, hoạt động ứng dụng- bổ sung là thao tác cuối cùng sau khi tìm hiểu xong toàn bộ nội dung của tác phẩm. Tuy là phần việc cuối cùng chiếm khối lượng thời gian ít ỏi nhưng có vai trò quan trọng, cũng là một phần tạo nên sự hoàn thiện của một giờ lên lớp. Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 13/18 Trong hoạt động này, giáo viên thường yêu cầu học sinh “củng cố” lại nội dung bài học nhằm khắc sâu kiến thức, để từ đó giáo viên chủ động cung cấp thêm thông tin, tư liệu để mở rộng kiến thức, hướng dẫn học sinh liên hệ, so sánh... giúp học sinh hiểu được bản chất, sâu sắc bài học. Có nhiều cách khác nhau để tổ chức hoạt động này cho phù hợp với đặc trưng kiểu bài, song củng cố, khắc sâu kiến thức một cách hệ thống nhất cho học sinh, tôi thường sử dụng Sơ đồ tư duy. Tôi yêu cầu học sinh hình dung lại, nhớ lại tiến trình bài dạy, kiến thức các em vừa được tiếp nhận. Từ đó, các em sẽ tự tạo lập một Sơ đồ tư duy cho mình hoặc cùng với nhóm mình tạo lập một Sơ đồ tư duy khái quát bài học ( trên giấy trắng khổ to hoặc trực tiếp trên bảng) . Ví dụ: Sau khi tôi dạy xong bài: Chiếc lược ngà- Tiết 72,73 Ngữ văn 9 tập 1. Tôi chia lớp thành 2 nhóm, yêu cầu học sinh hệ thống khái quát lại nội dung trọng tâm bài học bằng sơ đồ tư duy trong thời gian 3 phút. Nhóm 1 khái quát về nhân vật bé Thu, nhóm 2 khái quát về nhân vật ông Sáu. ( Ảnh minh họa 2)) Có thể nói: Sử dụng Sơ đồ tư duy trong thời gian này sẽ phát huy được ở học sinh: khả năng ghi nhớ, khả năng tổng hợp, khả năng hệ thống hóa kiến thức, khả năng sáng tạoKết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. 2.3 Dùng SĐTD để củng cố kiến thức trong các bài ôn tập, đặc biệt là ôn luyện để thi vào lớp 10 THPT. Bài ôn tập, luyện tập, tổng kết giúp HS tái hiện lại các kiến thức đã học, hệ thống hóa các kiến thức được nghiên cứu rời rạc, tản mạn qua một số chương, bài hoặc một phần thành một hệ thống kiến thức có quan hệ chặt chẽ với nhau theo logic xác định. Từ các hệ thống kiến thức đó giúp HS tìm ra được những kiến thức cơ bản nhất và các mối liên hệ bản chất giữa các kiến thức đã thu nhận được để ghi nhớ và vận dụng chúng trong việc giải quyết các vấn đề học tập Cấu trúc các bài ôn tập, luyện tập, tổng kết trong sách giáo khoa đều có hai phần: kiến thức cần nắm vững và bài tập. Phần kiến thức cần nắm vững đã được tóm tắt trong SGK. Do đó khi dạy học các bài luyện tập, GV có thể yêu cầu từng HS (hoặc từng nhóm HS) tự lập SĐTD nội dung kiến thức cần nắm vững trước khi lên lớp. Sau đó trong giờ học, GV có thể thu một số SĐTD của Đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy học ngữ văn lớp 9” 14/18 một số HS để kiểm tra, hoặc có thể yêu cầu một nhóm đại diện trình bày SĐTD của nhóm mình. Với cách này sẽ rèn luyện cho HS khả năng tự học, tự tổng kết và hệ thống hóa kiến thức, đồng thời HS sẽ có nhiều thời gian để vận dụng kiến thức trong giờ luyện tập, giúp HS ghi nhớ tốt hơn và hiểu bài sâu hơn Ví dụ: Khi dạy bài Ôn tập về truyện Tiết 153 Ngữ văn 9 tập 2. Tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà hệ thống kiến thức bằng sơ đồ tư duy về các nội dung sau: giai đoạn sáng tác, tên tác giả, tác phẩm, nội dung và nghệ thuật chính. Sau đó các nhóm trình bày sự chuẩn bị của mình trên lớp ( Ảnh minh họa 3) Trong việc ôn luyện thi vào lớp 10 môn văn: với hệ thống các văn bản trong SGK kết hợp với khối lượng kiến thức kĩ năng đồ sộ, một số em học sinh khi nhìn thấy lượng kiến thức nhiều thì rất sợ và không biết bắt đầu học từ đâu. Có rất nhiều em đã từng áp dụng rất nhiều phương pháp để n
Tài liệu đính kèm: