Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt bài thể dục phát triển chung

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt bài thể dục phát triển chung

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài

- Môn thể dục là một trong những bộ phận của nền giáo dục, góp phần làm

thay đổi mọi mặt của giáo dục toàn diện có ảnh hưởng rất lớn tới các mặt giáo dục

khác, có vị thế hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh có đầy đủ khả

năng, sức khỏe để tham gia vào cuộc sống sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Trong sự

nghiệp giáo dục và đào tạo Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục

tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển giáo

dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp: công nghiệp hóa

– hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”.

- Giáo dục thể chất là một phận quan trọng trong hệ giáo dục quốc dân, góp

phần giáo dục con người phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn bị

nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay đang đặt ra cho giáo viên thể dục ở

trường tiểu học một đòi hỏi phải làm sao để dạy tốt các bài thể dục có trong

chương trình ở bậc tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng. Cụ thể là bài thể dục phát

triển chung của chương trình thể dục lớp 4.

- Mục đích giáo dục thể chất trong nhà trường tiểu học nhằm góp phần bảo

vệ sức khỏe, cung cấp những kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ thể, môi trường,.

hình thành thói quen tập luyện, biết thực hiện một số động tác cơ bản thể dục thể

thao, trò chơi vận động,. tạo nên môi trường phát triển tự nhiên của trẻ em, gây

được không khí vui tươi, lành mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, dũng cảm,.

- Mục tiêu giáo dục thể chất là bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người

phát triển toàn diện có đủ sức khoẻ dồi dào thể chất cường tráng và cuộc sống vui

tươi. Hiện nay vấn đề sức khoẻ phải được coi trong phải đẩy mạnh mọi mặt công

tác thể dục thể thao để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Đăc biệt là bồi

dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho học sinh đây là vấn đề cấp thiết, vì các em là

những mầm non của đất nước là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của

Đảng, tương lai đất nước thuộc về các em, do đó các em cần có sức khoẻ tốt có lí

tưởng cao đẹp để gánh vác nhiệm vụ nặng nề ấy.

pdf 10 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 909Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt bài thể dục phát triển chung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo phân phối chương trình và 
chuẩn kiến thức kỉ năng cụ thể là: 
 - Mỗi tuần học 2 tiết, mỗi tiết học trung bình 35 phút, cả năm học gồm 70 
tiết, trong đó học kỳ I là 18 tuần dạy 36 tiết, học kỳ II là 17 tuần, dạy 34 tiết. 
 - Ở lứa tuổi học sinh lớp 4, các em đã hoàn thiện hơn so với ở lứa tuổi học 
sinh lớp 1,2,3 tốc độ phát triển cũng tăng lên rõ rệt các em đã biết hành động theo 
sự hướng dẫn của giáo viên ở mức độ cao hơn. 
 2
 - Điều đó giáo viên phải gương mẫu thường xuyên chú ý giáo dục tư tưởng 
cho học sinh để có thể giáo dục cho các em một cách chủ động, có kế hoạch và có 
kết quả cao hơn. 
 - Trong giảng dạy: Khi luyện tập hoặc cho các em vui chơi trò chơi thì có 
ảnh hưởng đến các lớp đang học. Vì vậy, giáo viên dạy cũng không được tốt lắm, 
học sinh cảm thấy chưa say mê tích cực trong tập luyện. Học sinh không chỉ học 
những bài thể dục tay không, trò chơi vận động mà các em còn rèn luyện thêm các 
tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo léo thông qua các nội dung học như: bật nhảy, 
chạy, ném bóng 
 - Ngoài việc giảng dạy cho các em có được một sức khoẻ thật tốt, giáo viên 
còn phải luôn giáo dục cho học sinh trong trường từng tiết học như: tính dũng cảm, 
tính trung thực, tính tự giác, tính tích cực, tính khiêm tốn cho nên phân môn thể 
dục ở bậc tiểu học chiếm một vị trí hết sức quan trọng không thể thiếu trong giáo 
dục con người theo hướng toàn diện. 
 1.3 Cơ sở thực tiển : 
 - Đối với học sinh tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển đầy 
đủ. Hệ hô hấp ở lứa tuổi này có đường hô hấp còn nhỏ hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động 
chưa được tốt, sự tập trung chú ý chưa bền vững, dễ bị phân tán, tính hưng phấn 
chưa cao, trí tưởng tượng đang phát triển song còn tương đối nghèo nàn, ít có tổ 
chức, tư duy logic chưa cao. Vậy nên làm thế nào để dạy bài thể dục phát triển 
chung lớp 4 thực sự thu hút được sự tập trung cao độ, tích cực tập luyện có hiệu 
quả...là vấn đề đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư suy nghĩ, nghiên cứu. 
 - Từ thực tế giảng dạy và xuất phát từ mục tiêu trên, để đáp ứng được mục 
tiêu của giáo dục thể chất nói chung và ở trường tiểu học nói riêng. Với những mục 
tiêu và yêu cầu cấp bách đó bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài " Một số biện pháp 
giúp học sinh khối 4 học tốt Bài thể dục phát triển chung". 
* Một số sai lầm thường mắc khi thực hiện bài thể dục phát triển chung lớp 4: 
 + Không thực hiện đúng phương hướng, biên độ động tác, các động tác tay 
giơ cao các em không đưa tay lên hết biên độ hoặc co tay, cúi đầu. 
 + không thực hiện động tác hít vào và thở ra hoặc nhịp hô nhanh quá các em 
không thực hiện kịp. 
 + Không biết cách chuyển trọng tâm ở động tác toàn thân. 
 + Không thẳng chân khi gập bụng hoặc đá chân. 
 1.4 Điểm mới của sáng kiến 
So với những tài liệu có liên quan thì sáng kiến của bản thân lại hướng dẫn 
học sinh nắm bắt được cách thực hiện các động tác của Bài thể dục phát triển 
chung. Qua đó, giúp học sinh thực hiện đúng biên độ các động tác. Đó cũng chính 
là điểm mới của đề tài. 
II. PHẦN NỘI DUNG 
2.1. Thực trạng của nội dung nghiên cứu: 
a. Thuận lợi: 
- Được sự quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo nhà trường. 
 3
- Đa số học sinh đều chăm ngoan, yêu thích môn thể dục. 
- Giáo viên bộ môn đã tìm hiểu và nắm được tình hình học sinh. 
- Ở các khối 1,2, 3, học sinh đã học qua các bài thể trong chương trình và 
phương pháp dạy học. 
 b. Khó khăn: 
- Cơ sở vật chất chưa đảm bảo. 
- Là giáo viên trẻ mới ra trường nên kinh nghiệm chưa có. 
- Về học sinh: nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong 
học tập. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử còn mang tính “tuỳ 
tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa mạnh dạn tìm kiếm sự giúp 
đỡ từ bạn, từ thầy cô. 
c. Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng: 
* Khảo sát nội dung thực hiện các động tác bài thể dục phát triển chung lớp 4 
TSHS 
Thực hiện động tác bài thể dục 
Đạt Chưa đạt 
SL % SL % 
34 17 50 17 50 
2.2. Các biện pháp: 
 - Giáo viên thể dục phải là người làm mẫu chuẩn xác các động tác thể dục 
cũng như có thói quen, tác phong rèn luyện thân thể trong cuộc sống. Vì vậy năng 
lực thực hành có tầm quan trọng số một. 
 - Để giúp các em học tốt môn thể dục, ngoài phương pháp giảng dạy giáo 
viên cần kết hợp nhiều biện pháp với nhau. 
 - Mỗi giờ dạy thể dục là là mỗi bước đi bằng hành động cụ thể trong quá 
trình biến mục đích nội dung giáo dục thành kết quả thực tế. Vì vậy mỗi giờ dạy 
đều phải làm cho học sinh nắm được kiến thức, kĩ năng, được bồi dưỡng về phẩm 
chất ý chí và được thúc đẩy thể lực tăng tiến không ngừng, muốn đạt được toàn 
diện phải thực hiện các khâu sau: 
 Biện pháp 1: Giải thích kĩ thuật 
 - Trong giải thích kĩ thuật TDTT việc vận dụng phương pháp giải thích là 
giúp học sinh có mục đích, hiểu nắm được yếu lĩnh từng động tác, tạo điều kiện 
cho học sinh tiếp nhận bài tập chính xác về mặt kĩ thuật, qua đó nhằm hình thành 
biểu tượng chung về động tác cho học sinh. thường khi mô tả động tác phải diễn ra 
đồng thời với quá trình làm mẫu. 
 4
 - Lời giải thích của giáo viên cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Việc giải 
thích cần được chú ý giúp học sinh nắm được nét cơ bản kĩ thuật và nhấn mạnh 
yếu lĩnh của động tác đã học, qua đó nhằm cũng cố kĩ năng, kĩ xảo vận động, tránh 
dduocj những sai sót mắc phải trong luyện tập, đánh giá được ý thức tập luyện 
động tác của học sinh. Vì vậy lời giải thích của giáo viên có ý nghĩa đáng kể trong 
quá trình tập luyện, học tập. 
 Biện pháp 2: Làm mẫu động tác 
- Khi dạy động tác mới thì việc làm mẫu là một trong những biện pháp rất cần 
thiết. Trước hết giáo viên nêu tên động tác, sau đó tiến hành làm mẫu. Khi làm 
mẫu giáo viên phải thể hiện đúng yếu lĩnh của động tác và làm mẫu hoàn chỉnh 
động tác. 
- Đối với những động tác khó, phức tạp, có sự phối hợp của nhiều bộ phận, giáo 
viên nên làm mẫu chậm từng nhịp hoặc có thể dừng lại ở những cử động khó để 
học sinh làm theo và giáo viên quan sát xem học sinh tập có đúng hay không. 
 Ví dụ: khi dạy động tác "thăng bằng". Giáo viên tổ chức làm mẫu từng nhịp 
của động tác và cho học sinh cùng làm. 
- Sau lần làm mẫu đầu giáo viên kết hợp cho học sinh xem tranh minh họa. Khi 
xem giáo viên cần nhấn mạnh những điểm cơ bản của động tác, giúp học sinh 
nắm chắc các cử động kĩ thuật. 
- Tiếp đó giáo viên có thể làm mẫu 1 lần nữa nếu như thấy còn một số học sinh 
chưa thực sự nắm chắc kĩ thuật động tác. Đối với lần làm mẫu này giáo viên thực 
hiện với một mức độ bình thường, đối với các cử động khó giáo viên có thể vừa 
làm vừa nhắc nhở sự chú ý tập trung của học sinh. 
- Như tôi đã nêu trên, làm mẫu cũng phải kết hợp với giải thích kĩ thuật động tác, 
đồng thời nhắc nhở học sinh chú ý quan sát những khâu chủ yếu. Khi giảng dạy 
phải trình bày một cách rõ ràng, nhấn mạnh những điểm then chốt của động tác để 
kích thích sự hứng thú của học sinh. 
 Ví dụ: Khi dạy học sinh thực hiện nhịp 1 động tác tay: "bước chân trái sang 
ngang rộng bằng vai, đồng thời hai tay dang ngang bàn tay sấp, căng ngực, mắt 
nhìn thẳng", thì giáo viên làm ngược lại "bước chân phải sang ngang rộng bằng 
vai, đồng thời hai tay dang ngang bàn tay sấp, căng ngực, mắt nhìn thẳng". 
 Biện pháp 3: Cách hô nhịp: 
 + Khi hô nhịp cho học sinh tập từng động tác: GV nêu tên động tác, sau đó 
hô lệnh bắt đầu. 
 Ví dụ: "Động tác vươn thở...bắt đầu". Nhịp hô nhanh hoặc chậm tùy thuộc 
vào tính chất từng động tác. 
 + Khi hô nhịp cho HS tập phối hợp cả bài: GV vừa hô nhịp, vừa kết hợp 
nhắc nhở HS và nhịp kết thúc của động tác trước chính là tên của động tác sau. 
 Ví dụ: GV nêu yêu cầu "Bây giờ các em sẽ tập phối hợp bài thể dục phát 
triển chung. Mỗi động tác 2 lần 8 nhịp. Động tác vươn thở...bắt đầu 1, 2, 3, 4, 5, 
6,7, 8; 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, tay 1, 2, 3, 4,...". 
 + Nhịp hô của giáo viên cần to, rõ ràng và phù hợp theo từng động tác. 
 5
 Ví dụ: 
 - Động tác: Vươn thở, Điều hoà nhịp hô phải chậm. 
 - Động tác: Tay, Lưng-Bụng, Toàn thân, Thăng bằng nhịp hô phải trung bình. 
 - Động tác: Chân, Nhảy nhịp hô hơi nhanh. 
 Biện pháp 4: Tổ chức tập luyện theo nhóm đôi, nhóm lớn: 
 - Cũng giống như một số môn khác, sử dụng học tập theo nhóm đôi nhằm 
giúp cho học sinh phát huy được tính mạnh dạn, tự tin và có điều kiện cùng nhau 
tiến bộ trong học tập. Đối với phân môn thể dục cũng thế, sau khi giáo viên đã 
hướng dẫn xong kĩ thuật động tác và tổ chức cho học sinh tập luyện theo lớp mottj 
số lần kết hợp với quan sát, uốn nắn, sửa sai tại chỗ. Nhưng cứ tập theo đội hình cả 
lớp như vậy thì sẽ gây nên sự nhàm chán, đơn điệu, mỗi lần giáo viên dừng lại sửa 
sai cho một em thì cả lớp cũng phải ngưng tập gây lãng phí thời gian. Vậy nên sau 
một vài lần tập thì giáo viên sẽ chia lớp thành nhiều nhóm đôi, nhóm phân công vị 
trí cũng như nhiệm vụ cho các nhóm tập luyện. Lợi thế của đội hình tập luyện này 
là các học sinh có thể giúp đỡ lẫn nhau, chỉ ảo nhau những hình thức mà mình lĩnh 
hội được, từ đó giúp các em khắc sâu thêm kiến thức, khơi dậy cho các em tinh 
thần đoàn kết, tự học. 
 Hơn thế nữa, khi tập các động tác khó cần có sự phối hợp của nhiều bộ phận 
trên cơ thể thì tập theo nhóm đôi, nhóm lớn sẽ giúp học sinh sửa sai cho nhau qua 
các lời nhận xét, cùng giúp đỡ nhau thực hiện đúng động tác, đồng thời khi dạy 
theo hình thức này, giáo viên cũng có nhiều thời gian quan sát và sửa sai cho học 
sinh mà không gây ảnh hưởng tới các học sinh khác. 
 Ví dụ: khi học động tác " Thăng bằng" đối với những cử động khó như gập 
thân, duỗi chân ra sau, hai tay dang ngang... Học sinh A có thể chỉ cho học sinh B 
thấy được những cử động tập chưa chính xác, từ đó chỉnh sửa cho đúng với yêu 
cầu kĩ thuật động tác và ngược lại. 
 Biện pháp 5: Sử dụng phương pháp "thi đua" vào tiết dạy 
 - Đối với phân môn thể dục nói chung và bài thể dục pháp triển chung nói 
riêng thì khối lượng vận động mỗi tiết học là không nhiều, những bài tập thường 
đơn điệu, các động tác lặp đi lặp lại nhiều lần nên dễ gây cảm giác nhàm chán 
trong học sinh. Vậy nên phương pháp học tập này đóng vai trò khá quan trọng 
trong việc đem lại hiệu quả cho một tiết dạy. Cụ thể, thông qua hình thức học tập 
này học sinh sẽ phát huy hết khả năng của mình, từ đó kích thích các học sinh khác 
có tinh thần tự giác tâp luyện, sự hưng phấn trong học tập được nâng lên nhiều lần, 
giảm bớt được sự uể oải, thiếu tập trung ở một số bộ phận học sinh. 
 Ví dụ: Những tiết ôn tập, một số bộ phận học sinh dễ nhàm chán do kiến 
thức, thực hành lặp lại nhiều lần. Vậy để đảm bảo cho các đối tượng học sinh hưng 
phấn tập luyện, tiếp thu tốt kiến thức thì giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua tập 
luyện theo nhóm nhỏ, sau đó tuyên dương động viên những em tập tốt. 
 Biện pháp 6: Sử dụng " Băng đĩa nhạc có lời hô" vào tiết dạy: 
 - Bài thể dục phát triển chung lớp 4 gồm có 8 động tác, thế nhưng khi giảng 
dạy không phải động tác nào cũng có nhịp hô như nhau mà thyyf thuộc vào từng 
động tác, có những động tác cần hô chậm và kéo dài để học sinh tập kịp kết hợp 
 6
phối hợp các bộ phận của cơ thể như: động tác vươn thở, điều hòa; nhưng có động 
tác cần hô hơi nhanh, hô vừa. Vậy nên khi học sinh tập cả lớp giáo viên nên sử 
dụng băng đĩa nhạc có lời hô để giúp học sinh thực hiện động tác đúng biên độ. 
Bên cạnh đó giáo viên có thêm thời gian để quan sát, uốn nắn, sửa sai kịp thời cho 
từng học sinh đối với những động tác mà các em tập chưa đúng. Đồng thời khi sử 
dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào tiết dạy còn làm cho tiết học thêm phong phú, 
sinh động, học sinh có hứng thú học tập hơn. 
Biện pháp 8: Đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN 
 Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học 
sinh là trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm trong 
trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của VNEN 
mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên 
trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và 
học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các em. 
 Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó 
là tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy trình thông qua các 
hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của học sinh, quy trình gồm 5 bước 
chủ yếu sau: 
 Gợi động cơ, tạo hứng thú. Trải nghiệm. Phân tích, khám phá, rút 
ra bài học. Thực hành. Vận dụng. 
 Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các 
hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và 
sử dụng kiến thức. 
 Biện pháp 7: Bồi dưỡng cán sự thể dục 
 - Mỗi tổ có một cán sự để giúp giáo viên, chọn lựa những em có trình độ thể 
lực tốt, có khả năng tổ chức, tích cực gương mẫu trong học tập có uy tín trong tổ 
để hướng dẫn các bạn hỗ trợ giáo viên trong tập luyện phát hiện những sai trái của 
từng động tác báo cáo với giáo viên để sữa sai kịp thời. 
 Biện pháp 8: Phân tích đánh giá giờ dạy: 
 - Đánh giá phản ảnh thực trạng đồng thời tìm những biện pháp giải quyết tình 
hình, sửa chữa sai sót của học sinh sau mỗi tiết dạy, giáo viên cần nhìn lại toàn bộ 
những khâu lên lớp, tiến hành các bước lên lớp theo đúng kế hoạch đề ra không, 
nội dung tập luyện có hoàn thành được nhiệm vụ yêu cầu hay không, việc áp dụng 
hình thức tổ chức và sử dụng các phương pháp giảng dạy có thích hợp có hiệu quả 
không, khối lượng vận động có phù hợp với yêu cầu của bài và năng lực học sinh, 
kết quả tập luyện của học sinh tiếp thu đến đâu, tồn tại những gì, tinh thần thái độ 
và tổ chức kỹ luật của học sinh khi lên lớp ra sao..Những vấn đề được phân tích 
sau tíết dạy giáo viên phải ghi vào phần cuối giáo án, hoặc sau một học kì, cần 
phân tích đánh giá khái quát các vấn đề, những vấn đề này được ghi vào sổ công 
tác chuyên môn. 
 - Căn cứ vào thực trạng trên bản thân đưa ra một số giải pháp tập luyện vào 
tình hình thực tiển của trường để rèn kỉ năng tập bài thể dục phát triển chung, là 
 7
dạy và học sau cho có thể khơi gợi hứng thú, phát huy được tính tự giác, tích cực 
của học sinh để hình thành và phát huy đúng năng lực của học sinh. 
 - Khi giảng dạy động tác mới, giáo viên nêu tên động tác và làm mẫu động 
tác hoàn chỉnh một lần, sau đó tập mẫu từng cử động để học sinh bắt chước theo, 
giáo viên tập mẫu theo kiểu soi gương tức là tập cùng hướng với học sinh. Quá 
trình thực hiện như vậy cần làm chậm, có thể dừng lâu ở cử động khó hoặc ở cuối 
nhịp để học sinh quan sát kiểm tra các bạn thực hiện. 
 - Giáo viên vừa làm mẫu vừa hô nhịp cho học sinh tập lại lần hai. 
 - Những lần đầu tập giáo viên cần tập mẫu và hô nhịp cho học sinh tập, dần 
dần hướng dẫn để cán sự điều khiển. 
 - Sau khi tập động tác tương đối thuần thục, giáo viên cho học sinh tập ôn 
phối hợp với các động tác trước đến động tác mới học và có sự tập mẫu của giáo 
viên hoặc cán sự lớp. 
 Vi dụ: Nếu giờ trước học sinh ôn 4 động tác, tiết này học động tác thứ 5, thì 
giáo viên cho học sinh ôn tập phối hợp 5 động tác. 
 - Khi cán sự điều khiển lớp tập bài, giáo viên cần uốn nắn nhịp hô nhanh hay 
chậm cho cán sự, sau đó mới cho cán sự chủ động điều khiển, giáo viên đi hỗ trợ, 
giúp đỡ sửa sai cho các em. 
 - Để các em tập đều và đẹp thì ở mỗi động tác giáo viên cũng cần nhắc học 
sinh nắm hướng quay của mặt. Điều đó giúp cho các em quan sát và tự chỉnh sửa 
được một số chi tíêt của động tác. 
 Ví dụ: Động tác Vươn thở của lớp bốn. 
 + Nhịp 1: Giáo viên nhắc học sinh đưa hai tay song song ra trước, bàn tay 
sấp, mắt nhìn thẳng, hít sâu vào bằng mũi. 
 + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh từ từ hạ tay xuống và thở ra bằng miệng. 
 + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh đưa tay từ dưới sang ngang lên cao chếch 
chữ V, lòng bàn tay hướng vào nhau, đầu ngữa, mắt nhìn theo tay, hít sâu vào bằng 
mũi. 
 - Đối với những động tác khó hoặc một số nhịp động tác khó tập giáo viên có 
thể cho các em tập đi tập lại nhiều lần ở nhịp đó hoặc động tác đó để các em nhớ 
và thực hiện thành thục hơn. 
 Ví dụ: Ở động tác 3: Chân của lớp bốn. 
 + Nhịp 2: Hạ chân trái về trước khuỵu gối, chân phải thẳng và kiễng gót, hai 
tay đưa ra trước, bàn tay sấp. 
 - Nhưng khi thực hiện đa số các em thường thực hiện chưa đúng theo yêu cầu 
của động tác như: Chân sau chưa thẳng. 
 - Giáo viên phải cho các em thực hiên lại bài tập để giáo viên hỗ trợ các em 
sửa sai để tập tốt hơn. 
 Vi dụ: Động tác 5: Toàn thân của lớp 4. 
 + Nhịp 1: Đưa chân trái sang ngang mũi bàn chân duỗi thẳng, đồng thời hai 
tay dang ngang, bàn tay sấp. 
 8
 + Nhịp 2: Hạ chân trái chạm đất rộng hơn vai, khuỵu gối; đồng thời hai tay 
chống hông (bốn ngón phía trước, ngón cái phía sau dồn trọng tâm nhiều lên chân 
trái). 
 + Nhịp 3: Quay thân trên sang trái trọng tâm dồn nhiều lên chân trái. 
 - Đa số khi các em thực hiện ở nhịp 1 mũi chân chưa duỗi thẳng, hai tay dang 
ngang chưa thẳng, ở nhịp 2 đặt chân xuống đất chưa rộng hơn vai, chưa dồn trọng 
tâm lên chân trái, còn ở nhịp 3 khi quay thân trên sang trái các em còn quay chưa 
thẳng hướng. 
 - Giáo viên nên cho các em tập chậm từng cử động rồi mới cho thực hiện theo 
nhịp, không cho các em thực hiện vội vàng dễ gây nên loạn nhịp. 
 Vi dụ: Động tác 7: Nhảy ở lớp 4. 
 - Các em thực hiện động tác còn giật cục, bật nhảy không nhịp nhàng. Giáo 
viên nên cho các em thực hiện ở những lần đầu bật nhảy chậm từng nhịp và phối 
hợp với động tác của tay, sau đó mới cho các em thực hiện nhanh dần. 
 Ví dụ: Động tác 8: Điều hoà ở lớp 4. 
 - Động tác của các em còn tập còn gò bó, không thả lỏng cơ thể, chưa kết hợp 
với hít thở sâu. Giáo viên là người điều khiển cần hô nhịp chậm, động tác nhẹ 
nhàng và nhắc các em kết hợp với hít thở sâu và thả lỏng tích cực. 
 - Trong khi ôn tập động tác đã học giáo viên cần luôn thay đổi hình thức tập 
luyện cho phong phú để các em không bị nhàm chán. 
 Ví dụ: Ôn tập 4 động tác: Vươn thở, Tay, Chân, và Lưng- bụng. 
 - Trước khi giáo viên điều khiển các em ôn bài, giáo viên nêu tên từng động 
tác rồi mới thực hiện động tác. Sau đó mới chia tổ, phân công giao nhiêm vụ cho 
các tổ trưởng. Trong quá trình tập luyện theo tổ giáo viên cần canh thời gian để học 
sinh chuyển nội dung cho kịp thời, tiếp theo giáo viên tổ chức cho các em tập thi 
đua theo tổ hoặc cá nhân với các hình thức sau: 
 + Mỗi tổ (cá nhân) lên thực hiện một trong bốn động tác theo phiếu bóc 
thăm, tổ hoặc cá nhân thực hiện tốt sẽ được ghi nhận đánh dấu vào sổ theo dõi học 
tập. 
 + Cho học sinh tập dưới dạng thi đua tập đúng, tập đẹp có phân thắng - thua 
có thưởng và phạt hoặc đánh dấu theo dõi vào sổ. 
 + Động viên học sinh xung phong hoặc mỗi tổ cử đại diện lên thi đua xem 
ai tập đúng tâp đẹp nhất. 
 + Các tổ còn lại quan sát nhận xét. GV chốt. 
III. PHẦN KẾT LUẬN 
 - Qua bước đầu vận dụng những biện pháp trên, để giảng dạy môn thể dục 
nói chung phân môn bài thể dục phát triển chung nói riêng. Tôi nhận thấy bản thân 
tự tin và chủ động hơn khi dạy bài thể dục phát triển chung, tiết dạy trở nên sôi nổi, 
tất cả học sinh đều ham học thể dục, tham gia tập luyện tích cực và nhiệt tình, thực 
hiện các động tác đúng biên độ và phương hướng, trong mỗi tiết học các em 
thường xuyên được rèn thân thể nên sức khoẻ các em được nâng lên rõ rệt, mức độ 
hoàn thành tốt trong kiểm tra được tiến bộ hẳn, không có học sinh nào đạt chưa 
hoàn thành. 
 9
 - Với kết quả đạt được qua áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở cơ sở. Tôi 
muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Thể dục cũng 
như góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Thể dục của học sinh trường TH số 
2 An Thủy. 
* Nội dung: "Khảo sát nội dung thực hiện các động tác bài thể dục phát 
triển chung lớp 4" 
TSHS 
Thực hiện động tác bài thể dục 
Đạt Chưa đạt 
SL % SL % 
34 17 50 17 50 
 Qua bảng thống kê cho thấy kết quả giảng dạy bài thể dục phát triển chung 
lớp 4 đã có sự chuyển biến rõ r

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_khoi_4.pdf