Biện pháp 3: Giúp học sinh nắm vững các dạng bài tập về biện pháp tu từ so sánh.
Dạng 1: Bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
Đây là kiểu bài tập giúp học sinh bước đầu nắm được cấu trúc của biện pháp so sánh. Với yêu cầu tìm những sự vật được so sánh với nhau, các em sẽ tìm ra cái so sánh và cái được so sánh. Những sự vật đưa ra so sánh tồn tại xung quanh các em, gần gũi và quen thuộc đối với cuộc sống của các em, giúp các em dễ dàng liên tưởng đến sự tương đồng giữa chúng. Dạng bài tập này chiếm đa số trong chương trình và có 3 dạng nhỏ sau:
* Dạng bài “Tìm những sự vật được so sánh”.
Đây là dạng bài tập chiếm số lượng lớn trong chương trình học giúp học sinh bước đầu nắm được cấu trúc của phép so sánh. Với yêu cầu tìm những sự vật được so sánh với nhau các em sẽ tìm ra “cái so sánh” và “cái được so sánh” trong phép so sánh. Đây là những sự vật tồn tại xung quanh các em, gần gũi và quen thuộc đối với cuộc sống của các em, giúp các em dễ dàng liên tưởng đến sự tương đồng giữa chúng. Với dạng bài này ta có các mô hình sau:
a) Mô hình 1: So sánh sự vật với sự vật.
Ví dụ:
Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành
Hoa hồng hồng nụ
Cánh trong ngón xinh.
(Bài 2, trang 8, SGK TV3, tập 1)
Để làm tốt bài tập này, HS phải nắm chắc được các từ chỉ sự vật, từ đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”
Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành”? lúc đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh ảnh để các em dễ nhận thấy điểm giống nhau.)
b) Mô hình 2: So sánh sự vật – Con người
* Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ dưới đây:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.”
(Hồ Chí Minh)
“Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng thêm lòng vàng”.
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này HS sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được “vì sao?”. Chính vì thế, giáo viên cần giúp HS tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “trẻ em” giống như “búp trên cành”. Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hi vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu trân trọng.
ra “cái so sánh” và “cái được so sánh” trong phép so sánh. Đây là những sự vật tồn tại xung quanh các em, gần gũi và quen thuộc đối với cuộc sống của các em, giúp các em dễ dàng liên tưởng đến sự tương đồng giữa chúng. Với dạng bài này ta có các mô hình sau: Mô hình 1: So sánh sự vật với sự vật. Ví dụ: Hai bàn tay em Như hoa đầu cành Hoa hồng hồng nụ Cánh trong ngón xinh. (Bài 2, trang 8, SGK TV3, tập 1) Để làm tốt bài tập này, HS phải nắm chắc được các từ chỉ sự vật, từ đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành” Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành”? lúc đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh ảnh để các em dễ nhận thấy điểm giống nhau.) Mô hình 2: So sánh sự vật – Con người * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ dưới đây: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.” (Hồ Chí Minh) “Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng thêm lòng vàng”. (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này HS sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được “vì sao?”. Chính vì thế, giáo viên cần giúp HS tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “trẻ em” giống như “búp trên cành”. Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hi vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu trân trọng. Mô hình 3: So sánh hoạt động với hoạt động * Ví dụ 1 : Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: “Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đạp đất.” (Trần Đăng Khoa) Dạng bài này, GV giúp HS nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đạp đất” qua từ so sánh “như” * Ví dụ 2 : Trong đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: “Cau cao, cao mãi Tàu vươn giữa trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi”. (Ngô Viết Dinh) Dạng bài tập này, GV yêu cầu HS tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh tự tạo lập. Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con người. Mô hình 4: So sánh âm thanh với âm thanh. * Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, câu văn dưới đây: “Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” (Nguyễn Trãi) Với dạng bài tập này, GV giúp HS nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn: “Tiếng suối chảy” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua từ “như” Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: + So sánh ngang bằng: Từ so sánh: là, như, giống, tựa, tựa như, như là, giống hệt, như thể, .. * Ví dụ 1: Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp ló trong cây. Từ so sánh là như. * Ví dụ 2: Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Từ so sánh là tựa. Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ so sánh mà dùng dấu câu như dấu gạch ngang, dấu hai chấm. * Ví dụ: “Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè, hoa nở cùng sao Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.” (Trần Đăng Khoa) + So sánh không ngang bằng (So sánh hơn kém) Các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng, * Ví dụ: “Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.” (Trần Quốc Minh) * Dạng bài “Tìm những hình ảnh so sánh”. Dạng bài tập này không chỉ yêu cầu học sinh tìm những sự vật được so sánh với nhau một cách riêng lẻ mà còn phải tìm cả hình ảnh so sánh. Tức là, các em phải tìm cả cấu trúc có thể đầy đủ hoặc không đầy đủ của phép so sánh. Những hình ảnh so sánh này sẽ đem lại cho các em những cảm xúc tốt đẹp, những cách nhìn mới mẻ về sự vật, về cuộc sống xung quanh. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ mô hình cấu tạo hoàn chỉnh của phép so sánh gồm 4 yếu tố, có như vậy học sinh mới không bị nhầm lẫn giữa dạng bài Tìm những hình ảnh so sánh với dạng bài Tìm những sự vật so sánh. Mô hình cấu tạo của phép so sánh: - Yếu tố 1: Yếu tố được so sánh hoặc bị so sánh - Yếu tố 2: Từ ngữ chỉ phương diện so sánh. - Yếu tố 3: Từ ngữ chỉ sự so sánh hay còn gọi là từ so sánh. - Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh. * Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh.” + Yếu tố 1: Sự vật được so sánh “Đôi mắt”. + Yếu tố 2: Phương diện so sánh “long lanh”. + Yếu tố 3: Từ chỉ sự so sánh “như”. + Yếu tố 4: Sự vật để so sánh “thủy tinh”. Trong thực tế, mô hình cấu tạo nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều trường hợp so sánh không đầy đủ cả bốn yếu tố. - So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh chìm. So sánh chìm khiến cho sự liên tưởng được rộng rãi hơn, kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn. Ví dụ: Tìm hình ảnh so sánh trong câu văn dưới đây: Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng. (TV3, t.1, tr.24) - So sánh vắng cả hai yếu tố 2 và 3 được gọi là so sánh sử dụng chỗ ngắt giọng và hình thức đối chọi. * Ví dụ: “Trường Sơn: chí lớn ông cha Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.” * Dạng bài “Tìm các từ so sánh”. Trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta thường dùng từ như khi muốn so sánh một thứ gì đó. Chẳng hạn đẹp như tiên, xấu như ma, hiền như bụt... Tuy nhiên, trong phép tu từ so sánh có rất nhiều những từ dùng để so sánh như: là tựa, giống, như thể, như là,... Để giúp các em nhận ra được sự phong phú, đa dạng cũng như sự tinh tế của so sánh tu từ, sách giáo khoa đã cung cấp cho các em dạng bài tập tìm các từ so sánh. Ví dụ: Bài 2 (SGK TV2, tập 1 trang 25) Hãy ghi lại các từ chỉ sự so sánh trong những câu sau: Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Dạng 2: Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh (Bài tập sáng tạo) Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao, tuy nhiên dạng bài tập này trong SGK rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì 1. Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Dạng bài này có 2 kiểu bài tập nhỏ đó là tập nhận biết tác dụng của biện pháp tu từ so sánh và tập đặt câu có dùng biện pháp so sánh. * Bài tập nhận biết tác dụng của phép tu từ so sánh Để nhận biết được tác dụng của phép so sánh, bài tập đã mở ra cho học sinh một hướng tiếp nhận mới đó là tự mình đưa ra những đánh giá, những nhận xét của riêng mình dưới dạng như phát biểu cảm nghĩ. Chính vì mọi so sánh đều mang đậm dấu ấn cá nhân của người so sánh nên mỗi học sinh sẽ có một cách cảm thụ của riêng mình. Ví dụ: Đọc đoạn thơ sau: Đã có ai lắng nghe Tiếng mưa trong rừng cọ Như tiếng thác dội về Như ào ào trận gió Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ ra sao? (TV3, tập 1, trang 80) * Bài tập đặt câu có dùng phép tu từ so sánh Đây là yêu cầu cao nhất mà các em phải thực hiện khi học phép so sánh. Với những kiến thức đã được học, cộng với sự tri giác qua các bức tranh học sinh sẽ tìm được sự giống nhau giữa các sự vật trong tranh từ đó viết ra những câu có hình ảnh so sánh. Hoặc từ những cấu trúc cho trước, học sinh sẽ tìm những từ phù hợp điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh thành câu * Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 126, SGK TV 3, tập 1. Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả bóng, GV hướng dẫn HS : Chúng ta sẽ so sánh mặt trăng và quả bóng, muốn so sánh chúng ta phải tìm điểm giống nhau giữa mặt trăng và quả bóng, HS đặt được câu “Trăng rằm tròn xoe như quả bóng”. Từ đó gợi ý học sinh đặt được câu khác có hình ảnh so sánh như: “Bé cười tươi như hoa”., “Đèn điện sáng như sao.” Ví dụ 2: Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống: a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như , như. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như . c. Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như . (TV3, tập 1, trang 126) * Biện pháp 4: Sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương tiện dạy học hiện đại. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3, các câu văn, câu thơ trích dẫn hầu hết thuộc loại so sánh hình ảnh nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc điểm của sự vật, sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng dấu hỏi với vành tai nhỏ hoặc “những chùm dừa” với “đàn lợn con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình ảnh động về cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả.. sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi tả.do đó giáo viên cần sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các phương tiện dạy học hiện đại. + Mục tiêu: Tạo hứng thú học tập cho học sinh + Cách thực hiện: Khi dạy phép so sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3 để giúp các em tìm được các hình ảnh so sánh, tự đặt câu có hình ảnh so sánh và vận dụng vào viết văn, tôi đã sử dụng các bài giảng điện tử với các hình ảnh động, đoạn phim video giúp học sinh cảm nhận rõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em dễ dàng so sánh sự vật một cách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó tôi còn thường xuyên sử dụng máy chiếu trong các tiết dạy học Luyện từ và câu để đưa các ngữ liệu hướng dẫn học sinh làm bài và chữa bài cho học sinh nằm giúp học sinh nắm bài chắc hơn và phát huy khả năng sáng tạo của học sinh trong tìm từ, đặt câu. VD: Bài 1, trang 24, sách Tiếng Việt 3, tập 1. Sau khi HS luyện tập tìm được các hình ảnh so sánh trong khổ thơ sau: “Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây từng chùm.” (Tô Hà) GV cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) bằn
Tài liệu đính kèm: