Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên nhưng lại là nền tảng rất quan
trọng đối với việc giáo dục sau này. Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng rất non
nớt, rất trong sáng và dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu bên
ngoài. Tuy nhiên ở lứa tuổi này nếu như không biết uốn nắn, không đến nơi thì
sẽ gây khó khăn cho các bậc học sau này. Chính vì vậy, người lớn chúng ta cần
phải rèn luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ nhỏ. Như ông bà ta có câu:
“Dạy trẻ từ thuở còn thơ”. Thật vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
rất nhiều bậc phụ huynh có ít thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái chính
vì vậy trẻ thường hay ỷ lại và không tự lo cho bản thân. Trẻ em ngày nay đã
thông minh hơn, hoạt bát, lém lỉnh hơn nhiều so với trẻ ngày xưa. Tuy nhiên các
con lại rất thiếu kĩ năng sống, thiếu khả năng tự lập thường hay dựa dẫm vào
người lớn. Khi gặp khó khăn chúng tìm ngay đến người lớn mà không tìm cách
giải quyết, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ. Vì
thế, để đạt được mục tiêu của ngành đưa ra thì giáo viên tìm cách hướng dẫn, chỉ
bảo cho trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ ngay từ bây
giờ. Nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những
giá trị sống và hình thành kĩ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc
sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần từ đó xây
dựng cho trẻ những kĩ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Ở mối
lứa tuổi trẻ cần có những tác động khác nhau đến kĩ năng sống của trẻ. Chăm
sóc, giáo dục, nuôi dưỡng trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở để trẻ phát
triển toàn diện vè thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, trí tuệ là nền tảng cho quá trình
phát triển nhân cách sau này của trẻ.
Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến biện pháp rèn luyện kĩ năng tự phục
vụ cho trẻ đặc biệt ở lứa tuổi 3-4 tuổi. Ở lứa tuổi này bước đầu có khả năng giao
tiếp, có thể học những bài học tự phục vụ đơn giản rồi dần dần dến phức tạp.
Qua tìm tòi nghiên cứu, nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò quan trọng của kĩ
năng tự phục vụ với sự phát triển của trẻ, tôi đã lựa chon đề tài: Một số biện
pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi với
mong muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình trong việc nâng cao giáo dục kĩ2
năng tự phục vụ bản thân không những cho trẻ lớp tôi, các lớp 3-4 tuổi trong
trường mầm non Thanh vân mà nó còn được áp dụng ở các trường mầm non
khác trong toàn huyện.
ự hứng thú của trẻ. Các giáo viên đều có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Các cô đều nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ có khả năng sáng tạo, tổ chức cho trẻ chơi hàng ngày. Về đội ngũ giáo viên - Tổng số cán bộ, giáo viên và nhân viên là 33 CBGVNV trong đó có: 2 cán bộ quản lý; 29 giáo viên; 1nhân viên kế toán, 1 nhân viên y tế. - Trình độ đạt chuẩn: 33/33=100%. - Trình độ trên chuẩn: 30/33=90%. - Khối 3-4 tuổi có 4 nhóm lớp với 8 giáo viên đứng lớp. 5 - Lớp 3-4 tuổi C có 2 giáo viên đứng lớp đạt trình độ trên chuẩn có bằng: Đại học sư phạm mầm non. Nhóm lớp: 17 nhóm lớp trong đó : Nhà trẻ: 3 nhóm lớp Mẫu giáo: 14 nhóm lớp Trẻ - Khối 3 tuổi có 4 lớp có tổng số trẻ là 105 trẻ (Nam: 47 trẻ; Nữ: 58 trẻ) - Lớp 3-4 tuổi C có tổng số trẻ: 27 trẻ trong đó: Trẻ nam: 10 trẻ Trẻ nữ: 17 trẻ * Khó khăn Khả năng nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều, có một số trẻ nói vẫn chưa thạo, ngôn từ chưa phong phú nên gây khó khăn trong việc thể hiện ý muốn của mình đối với cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn rất yếu, còn rụt rè, nhút nhát. Bên canh đó còn một số trẻ nghe nhưng chưa hiểu được các yêu cầu của cô, thích làm theo ý mình nên gây khó khăn trong việc rèn nề nếp cho trẻ. Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Gây khó khăn trong viếc phối hợp giữa giáo viên và gia đình, để giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Tôi đã tiến hành khảo sát khả năng tự phục vụ của trẻ ngay từ đầu năm học, kết quả nhận được như sau: Bảng 1: Kết quả các cháu tự phục vụ trong lớp ST T Số trẻ Nội dung khảo sát Đạt Chưa đạt Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 1 27 Tự lấy nước, cầm cốc uống 9 33% 18 67% 2 Tự xúc cơm 10 37% 17 63% 3 Tự cất bát, ghế sau khi ăn 9 33% 18 67% 4 Tự cởi, mặc quần áo 8 30% 19 70% 5 Tự đội mũ 12 48% 15 52% 6 Tự đeo tất 10 37% 17 63% 7 Tự đeo giày, dép 9 33% 18 67% 8 Tự cất gối sau khi ngủ dậy 8 30% 19 70% 9 Tự cất đồ dùng cá nhân 9 33% 18 67% 6 10 Tự cất đồ dùng đồ chơi 7 26% 20 74% 11 Tự vứt rác đúng nơi quy định 8 30% 19 70% 12 Tự gấp quần áo 4 15% 22 85% 13 Bài học lau bụi trên đồ dùng 9 33% 18 67% 14 Bài học ứng xử khi ho, hắt hơi, xỉ mũi 4 15% 22 85% 15 Bài học đeo kính, đeo khẩu trang 10 37% 17 63% 16 Bài học cầm đồ đưa cho người khác 9 33% 18 67% 17 Khả năng trẻ tự làm mà không cần cô nhắc nhở 4 15% 22 85% * Qua bảng 1 cho ta thấy trẻ có kĩ năng tự phục vụ ở mức tỉ lệ % trẻ đạt rất thấp và tỉ lệ % trẻ chưa đạt ở mức rất cao. * Nguyên Nhân: Nguyên nhân thứ nhất: Xuất phát từ phía trẻ, có một số cháu do khả năng tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung nghe cô hướng dẫn điều nay dẫn đến cho giáo viên bực mình có thể mắng, phạt trẻ. Đối với những giáo viên có tâm thì có thể kiềm chế bản thân để hướng dẫn trẻ đến nơi đến chốn. Nhưng bên cạnh đó có những cô sợ mình kiềm chế không được đã để cho trẻ tự mày mò hoặc giúp trẻ luôn. Trong gia đình cũng vậy, cứ nghĩ con mình còn nhỏ chưa thể làm được hay làm cuống cuồng nên bố mẹ làm luôn cho nhanh, điều này cứ thế lâu dần dẫn đến hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại, lười làm và không có kỹ năng tự phục vụ. Nguyên nhân thứ hai: Xuất phát từ giáo viên, do cô không chịu khó, không kiên trì hướng dẫn trẻ tự phục vụ nên cô hay làm giúp trẻ cho đỡ mất thời gian, đỡ phải bực tức khi trẻ không làm được. Việc này lâu dần dẫn đến hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại, lười làm và không có kĩ năng tự phục vụ. Vì trẻ nghĩ “Mình không làm thì có người khác làm cho thôi” Nguyên nhân thứ ba: Do mỗi gia đình Việt Nam chỉ có 1 đến 2 con, tất cả những tình cảm bố mẹ dành trọn cho những đứa con yêu quý của mình, ngoài ra còn có những đứa trẻ là con cầu con khẩn nên được gia đình chiều chuộng hết mức. Trẻ luôn được đáp ứng ngay mọi yêu sách, mọi mong muốn của trẻ. Bố mẹ làm thay tất cả mọi việc vì sợ trẻ vất vả, sợ quá sức của con, sợ con làm không đúng ý mình, sợ mất thời gian,Điều này lâu dần hình thành thói quen ỷ lại, luôn dựa dẫm vào người khác, thiếu kiên nhẫn và lười lao động. Ngoài ra còn có vô số các nguyên nhân khác chủ quan hay khách quan đã làm cho trẻ thiếu kĩ năng và thói quen tự phục vụ. 7 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến 7.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch Thời gian đầu, khi tôi mới nhận lớp tôi thấy khả năng nhận thức của trẻ chưa tốt, khả năng tự phục vụ còn hạn chế (Bảng 1). Có một số trẻ nói chưa tốt, chưa biết một số thói quen tự tự phục vụ đơn giản như các cháu khát nước chưa biết cách cầm cốc uống, chưa biết cách rót nước như thế nào cho khỏi đổ vào quần áo vẫn cần tới sự giúp đỡ của cô. Có một số trẻ có nhu cầu đi vệ sinh nhưng không biết cởi quần như thế nào và đã tè dầm ra quần , có một số trẻ thì chưa biết xúc cơm hoặc cầm thìa sai tay (Tay trái), trẻ ăn xong chưa biết cất bát hoặc ghế đúng nơi quy định, chưa biết đi giày, cất đồ dùng của mình vào tủ, không biết giúp đỡ bố mẹ, bạn bè, cô giáo những công việc vừa sức...Bên cạnh đó, còn một số trẻ nghe chưa kịp và chưa hiểu hiệu lệnh của cô “Các con hãy giúp cô lấy ghế về bàn ngồi”. Chính vì các con chưa hiểu nên không thực hiện được. Tuy nhiên có một số kĩ năng phục vụ rất tốt nhưng thiếu tính chủ động trẻ luôn chờ người lớn nhắc nhở thì trẻ mới tự làm. Ngày nay nội dung giáo dục kĩ năng tự phục vụ đã được chú trọng. Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ cần phải có thời gian và kiên trì để giúp trẻ tự phục vụ bản thân mình. Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tự phục vụ bản thân cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc và để gặt hái được nhiều thành quả tốt nhất trong quá trình thực hiện nên tôi đã thực hiện ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kĩ năng cần thiết để giáo dục trẻ biết tự phục vụ bản thân mà tôi đã xác định ở trên (Bảng 1). 7.2.2. Biện pháp 2: Phối hợp với phụ huynh Thường xuyên trao đổi thông tin giữa giáo viên và phụ huynh của trẻ. Giáo viên cần tìm hiểu thêm thông tin về trẻ từ phụ huynh: “Ở nhà cháu có hay giúp đỡ ông bà không? Cháu thích làm những việc gì giúp bố mẹ? Bố mẹ có để cho cháu tự phục vụ bản thân những việc vừa sức không? Đi giày dép, xếp quần áo của mình, tự xúc ăn...” Ngoài những việc tìm hiểu từ phụ huynh thì tôi thường xuyên phản hồi thông tin về trẻ cho phụ huynh nắm được. “Ở lớp cháu là người cháu là người như thế nào? Cháu có hay giúp đỡ cô không? Những việc trẻ làm tốt khi ở lớp” để phụ huynh tiếp tục khuyến khích cho cháu làm tốt ở nhà nhằm tạo thói quen tốt cho trẻ. Hình ảnh minh họa 8 Ảnh: Giáo viên trao đổi với phụ huynh về kĩ năng tự phục vụ trên lớp của trẻ Ngoài việc cổ vũ những cháu năng động tích cực phát huy khả năng, tôi còn chú ý đến những cháu chậm tiếp thu chưa tót, rụt rè. Tạo cơ hội để trẻ làm những việc vừa sức, hướng dẫn trẻ mọi lúc mọi nơi: “Con cứ làm đi, con làm được đấy, đừng sợ sai, cô không mắng đâu”. Khi hướng dẫn trẻ thì giọng nói của tôi cần nhẹ nhàng, chậm rãi, tạo sự gần gũi. Tránh những câu nói mệnh lệnh cứng nhắc: “Làm nhanh lên, làm thế này à, làm sai rồi.” Tôi không ngừng trau dồi năng lực chuyên môn, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp tìm kiếm những phương pháp giảng dạy mới, áp dụng những biện pháp giáo dục linh hoạt nhằm rèn cho trẻ có nề nếp, kĩ năng sống, thói quen tự phục vụ tốt để đảm bảo trẻ được hoạt động một cách linh hoạt và chủ động. Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn trẻ chậm dãi từng thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác khác. Tôi cho trẻ thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng, tạo cho trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Ví dụ: Đối với trẻ xúc ăn chưa thạo, ban đầu tôi sẽ chấp nhận cơm rơi vãi ra nhà hoặc đối với trẻ chưa biết cách uống nước tôi đổ một ít nước vào cốc và cho cháu uống, trẻ uống như thế nào tùy trẻ, lâu dần bản thân trẻ sẽ tự điều chỉnh tốt hơn do đã được trải nghiệm nhiều lần và đã có kinh nghiệm ở những lần thất bại trước. Để trẻ có được điều này thì chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi sự tiến bộ từng ngày của trẻ. 9 7.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng môi trường với trọng tâm giáo dục kĩ năng tự phục vụ ngay tại gia đình Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các thành viên trong gia đình trẻ như: Bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, em.... Các thành viên trong gia đình luôn tạo cơ hội cho bé thấy các việc làm và cách thức làm việc của mình, đồng thời nên giải thích cho bé về việc đó (Dù bé có hiểu hay không). Sau đó khuyến khích trẻ tham gia vào công việc với khả năng của trẻ. Ví dụ: Mẹ đang nhặt rau để nấu canh, hãy bảo trẻ cùng làm hộ, sau đó mẹ hướng dẫn bé cách nhặt rau, mặc dù trẻ có thể làm chưa khéo, có thể rau sẽ bị dập nát nhưng hãy cho con làm để có cơ hội rèn luyện lòng yêu thích công việc cũng như có các kĩ năng làm việc ngay từ khi còn nhỏ. Có thể tích cực nhờ vặt trẻ để trẻ có nhiều cơ hội được làm việc thì trẻ mới có kĩ năng. Không nên có suy nghĩ đợi trẻ lớn mới dạy, thậm chí có thể dạy bé từ lúc 16 tháng, đừng sợ con làm hư hay làm vỡ mà làm thay cho con. Ảnh: Bé giúp mẹ nhặt rau 10 Ảnh: Bé giúp mẹ cất quần áo vào tủ 7.2.4. Biện Pháp 4: Đặt mục tiêu hướng dẫn và rèn luyện những kĩ năng cần thiết Tôi hướng dẫn các cháu phát triển một số kĩ năng bổ trợ nhằm giúp trẻ phát triển hoàn thiện và có khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh thực tế như: Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân. Hướng dẫn trẻ kĩ năng tự bảo vệ. Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng khéo léo, kiên trì. * Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân Việc trẻ tự chăm sóc bản thân là viên gạch đầu tiên xây nên tính tự tin, tự lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ: Trẻ biết cách sắp quần áo thì sau này trẻ dễ áp dụng vào việc sắp xếp sách vở, đồ dùng đi học, khi đi làm trẻ sẽ sắp xếp công việc tốt hơn. Hình ảnh minh họa 11 Ảnh: Trẻ có kĩ năng gấp quần áo Nếu trẻ không biết đi giày, không biết mặc quần áo cho chính mình thì trẻ cũng không biết làm điều đó với người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc mình, ngoài việc tốt cho bản thân trẻ, trẻ tự chăm sóc bản thân cũng là cách giúp đỡ những người trong gia đình... Trẻ không tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận được sự vất vả khi làm việc và không biết thông cảm, thấu hiểu thì không có sự chia sẻ, gắn bó với những tình cảm mà người khác đã giành cho mình. Tự nhặt đồ chơi, tự cởi mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, đánh răng, tự đi dép, chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang ra ngoài, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang... Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn tự chăm sóc bản thân chính vì tôi chỉ cần khuyến khích, động viên trẻ trong những những buổi học đầu tiên đã làm trẻ có hứng thú với việc tự phục vụ cho bản thân mình. 12 Ảnh: Trẻ có kĩ năng đeo giày, đeo hài Ảnh: Trẻ có kĩ năng đội mũ, đeo khẩu trang 13 Ngay từ buổi đầu tiên đến trường, tôi hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định, hướng dẫn trẻ cách mặc quần áo, gấp áo. Công việc này cần phải có thời gian, đòi hỏi giáo viên phải kiên nhẫn, nhờ vậy mà sau gần một tháng trẻ hình thành thói quen trong việc tự chăm sóc bản thân mình. Ảnh: Trẻ cất dép đúng nơi quy định 14 Trẻ biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết gạt nước sau khi đi vệ sinh, biết bỏ rác đúng nơi quy định. Tôi hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân: rửa tay, rửa mặt, đánh răng, dạy trẻ cách thực hiện an toàn vệ sinh cá nhân thông qua câu chuyện hoạt động cá nhân trên lớp Ảnh: Trẻ có kĩ năng rửa mặt Ảnh: Trẻ có kĩ năng rửa tay 15 Kĩ năng hỗ trợ người khác: Bật ti vi, bật quạt, chia bát cơm, chia thìa, lấy cốc uống nước, cất dép đúng nơi quy định, tưới cây nhặt cỏ, lau bàn, gấp chăn, cất gối, dọn dẹp bàn khi ăn xong... Ảnh: Trẻ có kĩ năng chia thìa Ảnh: Trẻ có kĩ năng cất ghế 16 * Hướng dẫn trẻ kĩ năng tự bảo vệ Để trẻ có kĩ năng tự phục vụ mình tốt hơn thì trẻ phải có kĩ năng tự bảo vệ Kĩ năng nhận biết nguy hiểm Dạy trẻ cách nhận biết đồng thời hành động với những hành động đúng và kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống, các mối nguy hiểm trong nhà như: Ga, bàn là, điện, nước nóng, dao kéo. Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường,...Các mối nguy hiểm bất ngờ: Cháy nổ, chó cắn, ong đốt, ngộ độc...Các mối nguy hiểm về môi trường: Động đất, lũ lụt, bị xa vào vùng lầy, sông nước. Kĩ năng tự xoay sở Không phải những vấn đề trong cuộc sống được giải quyết một cách dễ dàng và bạn phải truyền đạt cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách lớn và không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh giải quyết vấn đề. Khi gặp vấn đè nào đó tôi không thay trẻ giải quyết vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc, tôi giúp trẻ tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này sẽ thể hiện sự tin tưởng của mình đối với trẻ có khả năng tự giải quyết vấn đề. Những việc hàng ngày tôi làm luôn nhằm khuyến khích kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng kiến tốt hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên.Tôi chỉ là chỗ dựa cho học sinh chứ không phải là người giải quyết vấn đề cho các con. Hướng dẫn trẻ kĩ năng thích nghi Thích nghi là một kĩ năng sống quan trọng vì nếu kĩ năng giao tiếp là bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với những người xung quanh thì thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Đứa trẻ nếu có kĩ năng giao tiếp có thể có được những thành công với những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng họ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích nghi thì cũng khó mà đạt được kết quả tốt cho cuộc sống của mình. Kĩ năng thích nghi với các loại thức ăn: Đối với trẻ có những sở thích hơi đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn những thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay nước uống nhất định điều đó thường là do chúng ta vô tình tập cho trẻ khi còn bé. Vì vậy, một mặt chúng ta vẫn tôn trọng những sở thích này nhưng vẫn tập cho trẻ ăn những loại thức ăn đa dạng. Các bữa ăn cho trẻ ở trường tôi luôn tạo không gian thoáng mát, hợp vệ sinh đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn uống ngon miệng. Trước bữa ăn để tạo cảm giác ngon miệng và thích thú khi ăn, tôi giới thiệu các món ăn ngon và tác dụng của các loại thực phẩm mà trẻ ăn thật hấp dẫn và thu hút. 17 Ảnh: Giáo viên đang giới thiệu món ăn Bữa nào mà trẻ ăn ngon thì tôi gắn 1 khuôn mặt cười, bữa nào trẻ không tập trung ăn và ăn không hết xuất thì sẽ gắn khuôn mặt buồn vào bảng bé ngoan, đến cuối tuần tổng kết khen ngợi trẻ và tặng cho trẻ một món quà nho nhỏ. Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn cũng không nên trách mắng mà tôi sẽ gần gũi, động viên, khiến khích trẻ tự xúc ăn hết xuất vào lần sau như: Cô biết là lần sau con sẽ làm tốt hơn. Ảnh: Trẻ được khen ngợi tặng quà 18 Kĩ năng thích nghi với môi trường: Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu không vệ sinh và ô nhiễm là không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch cũng không phải là điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể nghịch cát, đất, sỏi... trong một chừng mực vừa phải vì điều đó vừa giúp trẻ thỏa mãn được tính năng động , vừa nâng cao khả năng đề kháng. Dĩ nhiên là có sự giám sát của người lớn nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi có dấu hiệu nguy hiểm , còn đối với vài cú vấp ngã thì để trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn mà chúng ta còn tránh được sự mè nheo của trẻ. Quan điểm của tôi là rèn luyện cho trẻ tính chịu đựng trước khó khăn và phải tự lập chủ động trong mọi biến cố có thể xảy ra. Qua những bài rèn luyện thể chất rất ít trẻ mắc bệnh về đường hô hấp như: Sổ mũi, viêm họng...do thay đổi thời tiết. Ảnh: Trẻ chơi với cát Ảnh: Trẻ chơi với sỏi 19 Kĩ năng thích nghi với đám đông: Con người có hai loại tính đó là tính hướng nội và tính hướng ngoại, và trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác nhau. Vì vậy tôi cho trẻ làm quen với đám đông, phải dựa trên tính cách của các trẻ tùy thuộc loại tính khí nào. Với trẻ hướng ngoại thì chúng ta không cần lo ngại vì trẻ thường có xu hướng thích đám đông, thích sự ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ ngại tiếp xúc với đám đông có vẻ rụt rè, nhút nhát. Nhưng các bé cũng có ưu điểm để thành công đôi khi còn tốt hơn cả trẻ hướng ngoại nếu được sự định hướng đúng cách củ người lớn. Tôi giúp trẻ quen dần với đám đông qua việc cho trẻ tham gia giờ học dã ngoại, tham gia các giờ học ở trường, các buổi văn nghệ ngoại khóa.... Ảnh: Trẻ tham gia hoạt động ngoại khóa Thói quen xếp hàng: Đây là thói quen mà hầu hết người lớn chúng ta không để ý đến khi tham gia vào các hoạt động chung. Nhưng hãy cố gắng và tập cho trẻ làm quen và đứng xếp hàng ngay ngắn ngay từ nhỏ để dần dần thay đổi được cách ứng xử kém văn hóa nơi công cộng là sự chen lấn nhau. Ở lớp tôi rèn cho trẻ thói quen xếp hàng (Không chen ngang, xô đẩy bạn...) khi tham gia vào một hoạt động nào đó như cùng nhau xếp hàng để tập thể dục sáng, đi thăm vườn vườn hoa... 20 Ảnh: Trẻ có thói quen biết đứng xếp hàng Thói quen bỏ rác vào thùng rác: Ngay tại lớp học, tôi cho đặt thùng rác đúng nơi quy định để trẻ thấy việc bỏ rác là thói quen trong lớp, khi chơi ngoài sân trường cũng cần bỏ rác vào thùng rác công cộng để hình thành thói quen này. Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định. Ảnh: Trẻ tự bỏ rác đúng nơi quy định 21 Thói quen biết xin lỗi, nói lời cảm ơn: Ngay từ bé chúng ta đã cho trẻ thấy cách ứng xử như vậy của người lớn và khi giao tiếp với trẻ, chính tôi cũng phải nói lời cảm ơn, xin lỗi trẻ như vậy trẻ sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các cách ứng xử này. Kĩ năng thích nghi là một trong những kĩ năng giúp một đứa trẻ bình thường không có những năng lực đặc biệt gì những vẫn có thể đạt được những thành công nhất định trong cuộc sống và không gục ngã trước những thách thức khi bước vào đời. * Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng khéo léo, kiên trì Để trẻ có những kĩ năng tự phục vụ tốt, yêu cầu trẻ phải thật khéo léo và có tính kiên trì khi làm việc gì đó. Tôi luôn bên cạnh để gợi mở cho trẻ khi trẻ rất cố gắng mà vẫn chưa hoàn thành, tôi luôn đặt ra câu hỏi để trẻ tư duy vận dụng sự khéo léo cũng như kiên trì vào việc đang làm. Động viên khích lệ kịp thời khi trẻ đã làm tốt công việc được giao. Ví dụ: Tôi cho trẻ mặc áo cài cúc áo, trẻ loay hoay mãi chưa đóng được “Con phải cầm cúc áo như thế nào, con phải cho cúc áo vào đâu, đóng xong cúc áo thứ nhất có phải cài cúc áo nữa không, cô thấy con rất giỏi, con làm rất tốt”. Đối với trẻ nhút nhát, chưa làm được tôi sẽ tạo ra những chiếc áo có cúc áo dán bằng dấp dính, sau một thời gian tôi thay cho trẻ dóng bằng cúc to nhất với số lượng 2 cúc áo, tiếp theo là cúc nhỏ hơn và số lượng cúc áo cũng tăng dần lên. Ngoài ra tôi còn đưa ra một số bài học để giúp trẻ hứng thú hơn với kĩ năng tự phục vụ như: Bài học rót nước bình trong với cốc trong, bài học rót nước bình đục với cốc đục có tay cầm, bài học xúc hạt với thìa to, thìa nhỏ, bài học bốc chuyển hạt, bài học quét hót hạt đậu, bài học vắt nước với bọt biển.... Ảnh: Bài học cài cúc áo 22 Để giúp trẻ hình thành được những kĩ năng trên, tôi từng bước, từng bước mà thực hiện. Đối với trẻ chưa nói thạo, tôi sẽ nói chậm dãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ cách truyền đạt thông tin với cô giáo bằng các ra hiệu lệnh khi cần giúp đỡ. Song song đó tôi đưa các đề tài rèn kĩ năng tự phục vụ vào bài giảng hàng gày và tiếp tục rèn trẻ mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ thực hiện mỗi ngày để nó trở thành thói quen tốt của trẻ. Tận dụng các tình huống cụ thể để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ mới nhớ lâu hơn. Tôi thường xuyên động v
Tài liệu đính kèm: