I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến:
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng, tạo cơ sở cho HS phát triển ở các bậc
học tiếp theo. Vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kĩ
năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh
nghiệm thích ứngvới môi trường mới, yêu cầu mới. Nhiệm vụ của một người thầy
không phải chỉ mang đến kiến thức cho học sinh mà nhiệm vụ cao cả hơn chính là
giáo dục. Trong đó có giáo dục về kĩ năng sống - giáo dục cho các em các kĩ năng
cơ bản nhất để có thể đối đầu với cuộc sống. Nhất là học sinh lớp 3-lứa tuổi mà
các em không phải còn quá nhỏ để được sự bao bọc từng bước của gia đình, lứa
tuổi sắp bước sang một môi trường giáo dục không thể chỉ cần nghe nói đọc viết.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục
tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức,
trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu mới của
xã hội. Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi
trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như
vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,. để các em có thể tự tin, chủ động
không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại
lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn
đấu vươn lên.
Trong những năm trở lại đây, khi Phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” được triển khai và hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp
học, ngoài việc nâng cao chất lượng giáo dục, các đơn vị trường học ngày càng
chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, đặc biệt là
học sinh phổ thông.
thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên. Trong những năm trở lại đây, khi Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được triển khai và hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp học, ngoài việc nâng cao chất lượng giáo dục, các đơn vị trường học ngày càng chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh phổ thông. Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này. Hiện nay, nhờ có tiếp xúc nhiều với các nền giáo dục khác, giáo dục của ta đã có nhiều kế hoạch để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, sinh viên nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng. Vì vậy, có nhiều đề tài cũng đã nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, hầu như các tài liệu đó đều nói về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và ở nhiều môn học. Nhưng giáo dục kĩ năng sống qua môn Tiếng Việt có nhiều thuận lợi vì bản thân nội dung bài học đã buộc học sinh phải vận dụng rất nhiều kĩ năng (Tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình bày suy nghĩ, vấn đáp, giải quyết vấn đề,...). Thêm vào đó kĩ năng sống thì phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh sống. Có những phương pháp thì phù hợp với học sinh ở vùng miền này, nhưng cũng có những phương pháp không áp dụng được cho vùng miền khác. Và hơn hết, sự thay đổi đến chóng mặt của xã hội khi cánh cửa hội nhập mở ra khiến chúng ta không thể ngưng lại việc giáo dục để thích ứng kịp thời. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy học môn Tiếng Việt. 2. Điểm mới của đề tài Điểm mới của đề tài chính là sáng kiến này áp dụng cho chương trình giảng dạy theo mô hình trường học mới –VNEN. Bởi vậy mà tuy thời gian triển khai đề tài chưa nhiều nhưng cũng đã đem lại một số kết quả đáng kể: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm ; nâng cao tính tự lực tự quản của các em. Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Chấm dứt các vi phạm tụ tập đánh nhau . Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Chấm dứt việc nô đùa nguy hiểm. Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Sáng kiến “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy học môn Tiếng Việt.” được áp dụng đối với học sinh lớp 3 theo chương trình VNEN. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng của vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết: 1.1. Thực trạng Hiện nay, kỹ năng sống đang được quan tâm và đã có giáo trình riêng, nhưng không phải cứ dạy ở trong giáo trình với số tiết ít ỏi là có thể giáo dục được kĩ năng sống cho học sinh. Mà hơn thế nữa, giáo dục kĩ năng sống phải được tích hợp trong tất cả các môn học. Một thức trạng hiện nay cho thấy nhiều người nhầm kĩ năng sống là dũng cảm, kiên trì,... Đây chỉ là các phẩm chất đạo đức, nó góp phần cho việc thực hiện các kĩ năng sống chứ không phải chúng là các kĩ năng sống. Chính vì thế các em học sinh đều chưa tích luỹ được cho mình các kĩ năng sống cần thiết. Chúng mới chỉ có các kĩ năng sống theo bản năng mà thôi. Mặc dù, ở một số môn học, các hoạt động ngoại khoá, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến, tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao, hơn nữa, ngành giáo dục vẫn chưa có một chương trình, quy định cụ thể về đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 3, tôi thấy các em khá chăm ngoan, kĩ năng sống của một số em rất tốt nhưng cũng còn không ít em kỹ năng sống chưa cao. Phần lớn các em có nhận xét đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Kết quả năng lực, phẩm chất và kiến thức đầu năm lớp 3C như sau: Tổng số học sinh Năng lực Phẩm chất Kiến thức Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Hoàn thành Chưa hoàn thành 32 27 5 27 5 26 6 Đa số học sinh học theo chương trình VNEN thì có lợi thế hơn về kĩ năng giao tiếp, hợp tác. Tuy nhiên học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng bản thân. Học sinh ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi của học sinh còn hạn chế. Chính vì thế khả năng tiếp thu và lĩnh hội kiến thức còn chậm. 1.2. Nguyên nhân: Những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế - xã hội đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của con người. Nếu như trong xã hội truyền thống, các giá trị xã hội được coi trọng và được các cá nhân tuân thủ một cách nghiêm túc thì nay đang dần bị mờ nhạt và thay vào đó là những giá trị mới được hình thành trên cơ sở giao thoa giữa các nền văn hoá, văn minh khác nhau. Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó, đặc biệt là các địa phương có tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh chóng. Hoạt động giáo dục con cái của gia đình cũng có những biến đổi nhất định. Cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến con cái hơn là một thực tế không thể phủ nhận, thay vào đó là các hoạt động kinh tế, tìm kiếm thu nhập. Trong nhà trường, hiện tượng quá tải với các môn học cũng đang gây nhiều áp lực đối với người học. Cùng với đó là những tác động nhiều chiều của các nguồn thông tin khác nhau từ xã hội khiến cho giới trẻ đặc biệt là học sinh và sinh viên đang đứng trước nhiều thách thức khi hoà nhập xã hội. Các kĩ năng sống đã xem nhẹ trong một thời gian dài. Sự hướng dẫn của thầy cô giáo, nhà trường về kĩ năng sống cho học sinh chưa thật cụ thể, chưa dễ hiểu. Giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn học sinh thực hành rèn kĩ năng sống chưa kĩ. Học sinh thiếu sự quan tâm, ít trau dồi về kĩ năng sống. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống. Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không ít đến quá trình hình thành kĩ năng sống cho học sinh. 2. Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy học môn Tiếng Việt (Giải pháp:Không nên dùng từ giải pháp, cần chỉ rõ Biện pháp 1, Biện pháp 2... hoặc 2.1.; 2.2. .....Em xem dò lại lỗi chính tả và xem lại các biện pháp cho phù hợp nhé. Chị bôi đỏ để em xem lại ssax phù hợp chưa) 2.1. Giáo viên phải nắm vững khái niệm về kỹ năng sống và xác định rõ các nhóm kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh: Để đạt được hiệu quả tối đa các nội dung giáo dục về kĩ năng sống thì bản thân mỗi một người làm nhiệm vụ giáo dục cần nắm vững khái niệm về kĩ năng sống. Tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là "khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hóa; ví dụ cuộc sống bao gồm quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kỹ năng tổ chức. Đôi khi kỹ năng sống, nhưng không phải luôn luôn, khác biệt với các kỹ năng nghiệp vụ (trong nghề nghiệp) - Kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao. + Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy v.v + Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v Ở tiểu học, đối với các lớp đầu cấp, kỹ năng cơ bản được xem trọng, còn các lớp cuối cấp nâng dần cho các em về kỹ năng nâng cao. Theo đó, chúng ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống sau đây: * Nhóm kỹ năng giao tiếp - hòa nhập cuộc sống: - Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường, lớp học và bạn bè, thầy cô giáo. - Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng. - Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể học sinh được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai. - Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là kỹ năng quan trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu chúng ta không rèn luyện thường ngày. * Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí: - Các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết, kỹ năng quan sát, kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm. - Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung. - Kỹ năng kiểm soát tình cảm – kỹ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác. - Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động. * Nhóm kĩ năng khác: - Kỹ năng thoát hiểm: Những kỹ năng này bao gồm: thoát khỏi hỏa hoạn, ngập lụt, động đất, tai nạn thương tích, xâm hại hay bắt cóc. - Kỹ năng ứng phó, ứng biến - Kỹ năng sử dụng các vật dụng (mọi vật dụng và đặc biệt là vật dụng nguy hiểm): Sử dụng những vật dụng như: Dao, kéo, kim, búa, đinh, điện... một cách an toàn là đích mà ai cũng muốn học. - Kỹ năng khám phá cuộc sống một cách an toàn và hiệu quả. - Kỹ năng quản lý thời gian, tiền bạc. - Kỹ năng xác định phương hướng, đường đi. - Kỹ năng thể hiện và thuyết phục người khác. - Hy sinh bản thân vì tập thể. ĐỊA CHỈ TÍCH HỢP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG TRONG MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 3 Bài Tên bài học Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục 1A Cậu bé thông minh - Tư duy sáng tạo. - Ra quyết định. - Giải quyết vấn đề. 2B Ai có lỗi - Giao tiếp ứng xử văn hóa. - Thể hiện sự cảm thông: Bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông với bạn khi bạn bị mắc lỗi. - Kiểm soát cảm xúc. 3A Chiếc áo len - Kiểm soát cảm xúc. - Tự nhận thức. - Giao tiếp ứng xử văn hóa. 4A Người mẹ - Ra quyết định. - Giải quyết vấn đề. - Tự nhận thức. - Xác định giá trị cá nhân. 4C Ông ngoại (Tiết 1) - Giao tiếp, trình bày suy nghĩ. - Xác định giá trị. 5A Ai là người dũng cảm? - Tự nhận thức. - Xác định giá trị cá nhân. - Ra quyết định. - Đảm nhận trách nhiệm. 7A Vì sao không được đá bóng - Kiểm soát cảm xúc. dưới lòng đường? - Ra quyết định. - Đảm nhận trách nhiệm. 8A Các em nhỏ và cụ già - Tự nhận thức. - Xác định giá trị cá nhân. - Đảm nhận trách nhiệm. - Tìm kiếm sự hỗ trợ. 10A Không quên cội nguồn - Giao tiếp ứng xử văn hóa. - Thể hiện sự cảm thông: Bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông với những người cùng quê hương. 15A Người cha già mong điều gì ở cậu con trai - Tự nhận thức bản thân: Biết được thế nào là lao động chân chính. - Xác định giá trị. 16B Bạn sống ở thành thị hay nông thôn - Tự nhận thức bản thân. - Xác định giá trị. - Lắng nghe tích cực. 19 C Noi gương chú bộ đội - Thu thập thông tin. - Thể hiện sự tự tin: Trình bày trước đám đông. - Lắng nghe tích cực. 20C Em tự hào về truyền thống cha ông - Thể hiện sự cảm thông. - Kiềm chế cảm xúc. - Lắng nghe tích cực. 23C Chúng ta cùng xem biểu diễn nghệ thuật -Tư duy sáng tạo: nhận xét, bình luận. - Ra quyết định, quản lý thời gian. 27B Ôn tập 2 (tiết 3) - Thu thập, xử lí thông tin - KN hợp tác làm việc nhóm hoàn thành giải ô chữ. 27C Ôn tập 3 (tiết 3) - Tư duy sáng tạo - Đảm nhận trách nhiệm. 29A Bạn quyết tâm luyện tập như thế nào? - Tự nhận thức bản thân: Biết cố gắng vượt lên chính mình. - Xác định giá trị. 31B Hãy yêu thương và giúp - Thể hiện sự cảm thông: Bày tỏ sự chia sẻ, đồng cảm với nghĩa cử cao đẹp. đỡ lẫn nhau - Lắng nghe tích cực. Từ chỗ nắm chắc các nội dung tích hợp trong chương trình, giáo viên có thể linh hoạt trong việc sử dụng các hình thức và phương pháp dạy học trên cơ sở điều chỉnh nội dung cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Để việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 được đạt kết quả cao, bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau: 2.2. Tạo điều kiện thoải mái cho học sinh thể hiện kĩ năng của mình Để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo. 2.3. Chọn những kĩ năng cần thiết phù hợp với thực tế học sinh * Chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận. Ví dụ: Thực hành kĩ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong giao tiếp với bạn. * Học sinh dự đoán các kĩ năng, yêu cầu của các kĩ năng cần đạt được sau khi học xong tiết học này: Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh. * Học sinh đọc nội dung bài học, yêu cầu bài. * Gọi những học sinh nêu các kĩ năng thông qua bài học: Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kĩ năng sau khi học xong bài học. Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc Người mẹ - Bài 4A, học sinh cần nêu ra được các KNS được giáo dục trong bài như: - Tự nhận thức để hiểu được giá trị của người con là phải biết công lao và sự hi sinh của mẹ cho con cái. - Tìm kiếm các lựa chọn, giải quyết vấn đề để chấp nhận gian khổ, hi sinh thân mình của người mẹ để cứu con. * Hướng dẫn học sinh nắm được mục tiêu cần đạt sau khi học. Từ đó xác định các kĩ năng cần đạt. Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kĩ năng cần đạt. * Giáo viên chuẩn bị các câu hỏi gợị ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kĩ năng sống cần đạt. VD: Nêu mục tiêu cần đạt của bài? - Theo em cần làm gì để đạt được điều đó? - Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì? - Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp trường hợp như trong bài? * Giáo viên cần chuẩn bị một giáo án lồng ghép các kỹ năng cần thiết ( có nêu ra cụ thể các kĩ năng học sinhcần đạt sau khi học bài này; các kĩ thuật dạy học sử dụng trong bài dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy) 2.4. Tổ chức hoạt động với nhiều phương pháp tạo sự hứng thú cho học sinh như: đóng vai, trò chơi, Một khi nội dung học được kết hợp vào trò chơi, đóng vai thường gây được sự thích thú với học sinh. Các em được thể hiện bản thân mình một cách rõ rệt. Từ đó, sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ kịp thời giúp học sinh phát huy tối đa các kĩ năng mình có. Ví dụ: Khi dạy Bài 5A: Ai là người dũng cảm? (tiết 1) Giáo viên tổ chức cho các em thảo luận, phân vai sau đó diễn kịch trước lớp. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi đóng vai, nhưng giáo viên động viên, khuyến khích các em, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn. Trong bài 27B: Ôn tập 2 – Tiết 2. Học sinh được giáo viên tổ chức cho giải ô chữ. Chỉ gọi cá nhân thì hoạt động sẽ rất nhàm chán. Nhưng nếu thay bằng cách tổ chức thi đua xem nhóm nào giải được ô chữ đúng và nhanh thì sẽ tạo được hứng thú cho các em. Lúc này các em đã rèn được KN hợp tác làm việc nhóm. 2.5. “Học đi đôi với hành” Tuỳ theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động nay tại lớp với tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó. Ví dụ: Ở bài 19C (Tiết 1): “Noi gương chú bộ đội”. Sau khi học sinh nhận xét về báo cáo hoạt động. Giáo viên tổ chức cho các em thực hành ngay báo cáo các hoạt đông của các bạn ở lớp mình. 2.6. Động viên khen thưởng Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống. Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa thật ý nghĩa để dành tặng mẹ và cô giáo của mình. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội. 3. Kết quả: Qua khảo sát lần 2 ở lớp 3C (Cuối HKI) kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều: Tổng số học sinh Năng lực Phẩm chất Kiến thức Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Hoàn thành Chưa hoàn thành 32 32 0 32 0 32 0 Sau khi vận dụng các biện pháp trên vào việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt cho học sinh, bản thân nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ luân lưu trong tuần. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của sáng kiến: Qua một số giải pháp trên mong rằng với sự linh động sáng tạo của giáo viên, kĩ năng sống của các em sẽ được cải thiện rõ rệt. Thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh ho
Tài liệu đính kèm: