b. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
*. Đặc điểm tình hình nhà trường:
Trường mầm non Đại Tự gồm 03 điểm trường với 19 lớp học;
Tổng số trẻ: 532; 15 lớp mẫu giáo với 417 trẻ; 4 lớp nhà trẻ với 115 trẻ;
Ngay từ đầu năm học các tổ chuyên môn đã được cơ cấu như sau:
1 tổ chuyên môn 5 tuổi với 8 thành viên
1 tổ chuyên môn 4 tuổi với 7 thành viên
1 tổ chuyên môn 3 tuổi với 7 thành viên
1 tổ chuyên môn 2 tuổi với 8 thành viên
1 tổ nuôi dưỡng với 5 nhân viên cấp dưỡng
* Thực trạng công tác sinh hoạt tổ chuyên môn
Tuy nhiên, do bận nhiều công việc nên thực tế vẫn còn chưa quan tâm
một cách đúng mức tới tất cả các buổi sinh hoạt chuyên môn, của tất cả các tổ3
trong năm học. Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp tổ chức sinh hoạt chuyên
môn, vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý chỉ đạo hoạt động chuyên môn.
- Chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ
Nhìn chung các tổ chuyên môn hoạt động khá nền nếp và duy trì thường
xuyên, chấp hành đúng quy định tại điều lệ trường mầm non 2 buổi/tháng Tuy
nhiên, nhận thức của một bộ phận giáo viên chưa sấu sắc, chưa tích cực vến đề
sinh hoạt chuyên môn tổ. Họ còn coi nhẹ các giờ sinh hoạt, chưa thật sự đam mê
với công tác bồi dưỡng chuyên môn, chưa phát huy được tính tư duy, sáng tạo.
Nhiều giáo viên chỉ dự sinh hoạt chuyên mooncho đủ số buổi theo quy định chứ
chưa thấy được đây là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của người giáo viên.
Cách trao đổi trong sinh hoạt chuyên môn mang nặng về đánh giá, xếp
loại giờ dạy của giáo viên, ít quan tâm đến quá trình, sự hứng thú hoạt động của
trẻ. Việc thực hiện các chuyên đề hiệu quả chưa cao, chỉ taaph trung cao điểm
vào chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Trao đổi, rút kinh nghiệm vấn đề
nhiều khi giáo viên không mấy hứng thú, ít ý kiến phát biểu.
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ và quản lý sử dụng tài liệu, đồ dùng, đồ chơi, thiết bị giáo dục của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường; Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non; Đề xuất khen thưởng, kỉ luật giáo viên; Tổ chuyên môn sinh hoạt định kỳ ít nhất hai tuần một lần”. b. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến *. Đặc điểm tình hình nhà trường: Trường mầm non Đại Tự gồm 03 điểm trường với 19 lớp học; Tổng số trẻ: 532; 15 lớp mẫu giáo với 417 trẻ; 4 lớp nhà trẻ với 115 trẻ; Ngay từ đầu năm học các tổ chuyên môn đã được cơ cấu như sau: 1 tổ chuyên môn 5 tuổi với 8 thành viên 1 tổ chuyên môn 4 tuổi với 7 thành viên 1 tổ chuyên môn 3 tuổi với 7 thành viên 1 tổ chuyên môn 2 tuổi với 8 thành viên 1 tổ nuôi dưỡng với 5 nhân viên cấp dưỡng * Thực trạng công tác sinh hoạt tổ chuyên môn Tuy nhiên, do bận nhiều công việc nên thực tế vẫn còn chưa quan tâm một cách đúng mức tới tất cả các buổi sinh hoạt chuyên môn, của tất cả các tổ 3trong năm học. Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp tổ chức sinh hoạt chuyên môn, vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý chỉ đạo hoạt động chuyên môn. - Chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ Nhìn chung các tổ chuyên môn hoạt động khá nền nếp và duy trì thường xuyên, chấp hành đúng quy định tại điều lệ trường mầm non 2 buổi/thángTuy nhiên, nhận thức của một bộ phận giáo viên chưa sấu sắc, chưa tích cực vến đề sinh hoạt chuyên môn tổ. Họ còn coi nhẹ các giờ sinh hoạt, chưa thật sự đam mê với công tác bồi dưỡng chuyên môn, chưa phát huy được tính tư duy, sáng tạo. Nhiều giáo viên chỉ dự sinh hoạt chuyên mooncho đủ số buổi theo quy định chứ chưa thấy được đây là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của người giáo viên. Cách trao đổi trong sinh hoạt chuyên môn mang nặng về đánh giá, xếp loại giờ dạy của giáo viên, ít quan tâm đến quá trình, sự hứng thú hoạt động của trẻ. Việc thực hiện các chuyên đề hiệu quả chưa cao, chỉ taaph trung cao điểm vào chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Trao đổi, rút kinh nghiệm vấn đề nhiều khi giáo viên không mấy hứng thú, ít ý kiến phát biểu. * Một số khó khăn do tác động ngoại cảnh: Đặc thù giáo dục mầm non thời gian trực tiếp chăm sóc trẻ chiếm trọn cả ngày nên bố trí sinh hoạt chuyên môn rất hạn chế. Hàng năm nhà trường luôn có sự biến động về nhân sự (người về hưu, người chuyển đi, người chuyển đến, người mới bổ nhiệm). Nhiều giáo viên trẻ có con nhỏ, một số giáo viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Có giáo viên đi dạy khá xa trên 15 km. * Kết quả khảo sát giáo viên: (cuối năm học 2019-2020): Kết quả đánh giá hoạt động sư phạm của giáo viên: (tháng 8/2020) Từ thực trạng trên cho ta thấy chất lượng đội ngũ chưa cao một phần cũng do chất lượng sinh hoạt chuyên môn của các tổ hạn chế, chưa hiệu quả. Do đó, để tập trung giải quyết vấn đề trên tôi đã áp dụng một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, giúp thay đổi được nhận thức của giáo viên về sinh hoạt chuyên môn, phát huy được vai trò của giáo viên đầu đàn, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn, tạo tâm thế thoải mái, ham muốn học hỏi, phát huy khả năng sáng tạo của giáo viên để nâng cao được chất lượng đội ngũ trong nhà trường. Cụ thể các biện pháp như sau: 7.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn Việc quản lý chỉ đạo các tổ chuyên môn sinh hoạt là khâu vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy và nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn cũng như chất lượng giáo dục của trường. Từ thực tế nhà trường, tôi đã thống nhất trong ban giám hiệu, trực tiếp chỉ đạo đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn như sau: 4- Bố trí thời gian biểu, tạo thời gian thuận lợi cho các tổ chuyên môn sinh hoạt luôn phiên hợp lý. Dự sinh hoạt chuyên môn tại các tổ, nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng của giáo viên, những vấn đề còn vướng mắc về chuyên môn tôi chỉ đạo tổ trưởng chủ động đưa các vấn đề đó ra bàn bạc thảo luận cách thực hiện, có thể tổ chức thành chuyên đề nhằm giúp giáo viên định hướng được các phương pháp giáo dục phù hợp, khích lệ, khơi gợi cho giáo viên mạnh dạn bày tỏ ý kieenscuar mình. Đặt vấn đề giúp giáo viên suy nghĩ tìm cách giải quyết. Mỗi giáo viên đều đưa ra cách giải quyết theo tư duy của mình, từ đó lựa chọn ra những cách thực hiện phù hợp nhất. Hướng dẫn tổ trưởng xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn của tổ; xây dựng nội dung sinh hoạt tổ sao cho phù hợp và hiệu quả; Nội dung cần soáy sâu vào chuyên môn, đón đầu tìm cách giải quyết cách thực hiện nội dung chương trình sắp giảng dạy, phương pháp giảng dạy các lĩnh vực, môn học khó, cũng như công tác chủ nhiệm lớp, kinh nghiệm chăm sóc trẻ, phối hợp với phụ huynh, rèn nền nếp trẻ. Không chỉ quan tâm chỉ đạo chuyên môn, topoi confquan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của giáo viên. Từ đó giúp họ vững tin vào bản thân mình, đồng thời giúp họ có thể tin tưởng vào ban giám hiệu mạnh dạn bày tỏ nguyện vọng, tâm tư của mình, tạo điều kiện cho giáo viên vui vẻ, tận tâm tận lực với công việc và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tổ trưởng chuyên môn phải là người có trình độ, giỏi chuyên môn, có khả năng xây dựng kế hoạch, điều hành tổ chức hoạt động của toortheo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình GDMN do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành và kế hoạch năm học của nhà trường. Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong tổ, đánh giá xếp loại và đề xuất khen thưởng, kỷ luật giáo viên thuộc tổ mình quản lý. Phải là người bạn đồng hành, đồng chí chân thành, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp, và phải biết động viên tinh thần, khích lệ sự cố gắng phấn đấu của mọi thành viên trong tổ. Bản chất của việc xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn là xác định xem trong năm học tổ hướng đến những mục tiêu phát triển nà, muốn thực hiện các mục tiêu đó cần phải làm gì, làm thế nào, khi nào và ai làm? Ngay từ đầu năm học tôi đã chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn cần bám sát kế hoạch chung của nhà trường, kế hoạch về chuyên môn để xây dựng kế hoạch của tổ. Khi xây dựng kế hoạch tổ cần lấy ý kiến các tổ viên, xây dựng dự thảo rồi họp tổ để bàn bạc thống nhất. Kế hoạch phải cụ thể chi tiết rõ ràng từng việc, từ phương hướng nhiệm vụ chỉ tiêu phấn đấu, giải pháp thực hiện đến việc phân công nhiệm vụ cho từng người, thời gian hoàn thành cho từng công việc cụ thể, từng tuần, tháng. 5Chỉ đạo tổ trưởng khi phân công nhiệm vụ, phải nghiên cứu xem xét năng lực, hoàn cảnh từng thành viên để bố trí, sắp xếp phù hợp. Khơi dậy lòng nhiệt tình, khích lệ động viên các thành viên trong tổ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo định kỳ. Nội dung sinh hoạt chuyên môn chuẩn bị kỹ lưỡng, từ đó khắc phục tình trạng sinh hoạt qua loa chiếu lệ. Nêm tham khảo ý kiến từ ban giám hiệu nhà trường trước những vấn đề khó để giải quyết một cách hiệu quả nhất. Phải thống nhất nền nếp sinh hoạt tổ và xây dựng nội quy hoạt động của tổ. Kế hoạch của tổ sau khi xây dựng xong phải được thông qua tổ chuyên môn và phê duyệt của lãnh đạo nhà trường trước khi thực hiện. hàng tháng tổ trưởng phải triển khai kế hoạch cụ thể tại phiên họp thường kỳ của tổ. Như vậy, kế hoạch của tổ chuyên môn được xây dựng trên cư rcuj thể hóa kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn, kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của trường. Khi xây dựng cần căn cứ vào thực tiễn của nhà trường, tình hình đội ngũ giáo viên trong tổ, trong kế hoạch tổ chuyên môn thì nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn là một phần quan trọng. Nội dung này phải thể hiện được những công việc cần làm cho cả năm học và bổ sung những vấn đề nhà trường chỉ đạo hoặc phát sinh trong năm học, những vấn đề giáo viên chưa nắm vững, gặp khó khăn, hạn chế để có điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ. Kết quả là: Các tổ chuyên môn đều căn cứ kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch chuyên môn của tổ. Kế hoạch cụ thể, rõ ràng, nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ chỉ tiêu các mặt, biện pháp thực hiệnKế hoạch tuần nêu rõ công việc làm trong ngày, người thực hiện, thời gian thực hiện, thời gian hoàn thành, biện pháp, kết quả Thống nhất nề nếp sinh hoạt tổ và quy định chung của tổ, thiết lập hồ sơ theo quy định. Tổ chức sinh hoạt tổ chuyên môn 2 lần trong 1 tháng, những nội dung sinh hoạt xây dựng trước và thông báo cho các thành viên trong tổ để chuẩn bị chu đáo. Khắc phục sinh hoạt tổ chuyên môn qua loa, chiếu lệ. Vận động giáo viên nghiêm túc chấp hành phân công chuyên môn nhà trường, mỗi giáo viên nâng cao tinh thần tự giác thẳng thắn góp ý với mục đích góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Từ đó giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của công tác sinh hoạt chuyên môn ở trường mầm non nói chung và ở tổ chuyên môn nói riêng. Coi đây là quyền lợi là nghĩa vụ mà mỗi giáo viên phải làm tốt để đáp ứng được sự đổi mới giáo dục ngày càng cao. Họ cần hiểu rằng muốn có uy tín trước phụ huynh và đồng nghiệp thì nhất thiết phải luôn tự học, tự bồi dưỡng nâng cao phẩm chất nghề nghiệp, lực chuyên môn cho bản thân. 6Để đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, căn cứ vào trình độ, năng lực, kiến thức, kĩ năng của giáo viên tôi đã xây dựng các gợi ý và phân loại về nội dung sinh hoạt chuyên môn trong năm như sau: * Những nội dung sinh hoạt thường xuyên: Đó là những nội dung xoay quanh 5 lĩnh vực phát triển của trẻ: Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm- kĩ năng xã hội và phát triển thẩm mĩ. n gặp nhiều khó khăn, hạn chế để từ đó tổng hợp và gói gọn thành các chủ đề như: - Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Giúp giáo viên trau dồi thêm về tư tưởng, đạo đức, phong cách, thái độ làm việc một cách nghiêm túc, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liễn với thực tiễn; rèn luyện những phẩm chất chính trị đặc biệt là những phẩm chất đạo đức của một nhà giáo. - Những quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non: Đó là những quy định về phẩm chất đạo đức, kiến thức và kĩ năng sư phạm chuẩn mà người giáo viên cần đạt được. - Tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho trẻ: Những nhóm kĩ năng cần thiết để dạy trẻ đó là kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự bảo vệ bản thân trước những tình huống nguy hiểm, kĩ năng giải quyết vấn đề... - Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm: Đây là một trong những nội dung đổi mới phương pháp dạy học. Khác với phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm phát huy được tính tích cực chủ động khám phá, tìm tòi ở trẻ, các hoạt động đều được xuất phát từ trẻ; trẻ được tham gia nhiều các hoạt động trải nghiệm, được tự đưa ra cách giải quyết vấn đề. Môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm mang tính mở, phong phú về đồ dùng, nguyên liệu để cho trẻ lựa chọn tham gia vào các hoạt động theo ý thích của mình. Với điểm mới như vậy, người giáo viên phải luôn luôn thay đổi nội dung, linh hoạt, sáng tạo hơn trong vai trò là người định hướng giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. - Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy: Bao gồm cách sử dụng các phần mềm soạn giáo án điện tử, phần mềm quản lý học sinh (sĩ số, lý lịch trẻ, kết quả theo dõi sức khỏe trẻ, kết quả nhận thức trên trẻ)..., cách trình bày văn bản theo quy định..., sử dụng công nghệ thông tin đúng lúc, đúng chỗ tránh lạm dụng công nghệ thông tin. * Những vấn đề mới, phát sinh: Đây là những vấn đề mang tính thời sự mà người giáo viên cần am hiểu để phục vụ cho công việc của mình như: 7- Những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của ngành. - Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội trong và ngoài nước liên quan đến giáo dục. - Văn hóa nơi công sở. - Kĩ năng giao tiếp trong quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp, phụ huynh và với trẻ. g. Biện pháp 6: Chỉ đạo đổi mới hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn: Hình thức sinh hoạt chuyên môn phải thường xuyên được thay đổi phù hợp với thực tế điều kiện vật chất, tính chất của công việc, yêu cầu đòi hỏi của công tác bồi dưỡng giáo viên; Để thực hiện tốt những nội dung sinh hoạt chuyên môn trên thì việc thay đổi hình thức sinh hoạt chuyên môn là rất cần thiết. Ngay từ đầu năm học, tôi đã hướng dẫn giáo viên xây dựng Kế hoạch cá nhân một cách cụ thể, nêu được những mặt mạnh, điểm yếu của bản thân về chuyên môn và những kiến nghị, đề xuất của mình đối với nhà trường. Từ đó đề xuất và chỉ đạo đổi mới hình thức sinh hoạt chuyên môn như sau: * Sinh hoạt chuyên môn thông qua các buổi học tập: - Học tập trung: Trước hết bản thân tôi trực tiếp nghiên cứu sâu bài giảng và thiết kế bài giảng với đầy đủ mục tiêu, nội dung để hướng dẫn tổ trưởng chuyên môn triển khai tới toàn thể giáo viên. Học theo hướng tích cực hóa hoạt động của tổ viên (tổ trưởng nêu vấn đề, tổ viên trao đổi, thảo luận, thống nhất, kết luận về nội dung buổi học). buổi sinh hoạt chuyên môn sôi nổi hơn, các thành viên trong tổ được tích cực tham gia đóng góp các ý kiến cho nội dung bài học. * Sinh hoạt chuyên môn thông qua dự giờ (một phần trong nghiên cứu bài học): Dự giờ là một hình thức phổ biến song dự giờ trong hình thức nghiên cứu bài học thì cần thay đổi mục đích của việc dự giờ từ dự giờ để đánh giá giáo viên sang dự giờ để học tập, bởi dự giờ để đánh giá sẽ không giúp giáo viên có thể thoải mái bày tỏ với đồng nghiệp những ý kiến, chia sẻ những khó khăn gặp phải trong quá trình dạy học. Sau khi đã nghiên cứu, thảo luận về lý thuyết nội dung của vấn đề, phân công người chuẩn bị nội dung thực hành, tôi chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức cho giáo viên dự giờ, đề nghị giáo viên bên cạnh việc quan sát cách tổ chức lớp học, các hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của giáo viên cần tập trung vào việc quan sát thực tế học tập của trẻ, quan sát cử chỉ, thái độ, nét mặt, hoạt động của trẻ. Ngoài ra cũng cần lưu ý giáo viên chọn vị trí ngồi dễ quan sát nhất và phù hợp với không gian lớp học, nên là ngồi hai bên hoặc phía trên. Người dự không nên 8can thiệp vào việc học của học của trẻ hoặc trao đổi với nhau làm người dạy cũng như trẻ mất tập trung. Trước khi thảo luận sau dự giờ, cho giáo viên dạy nêu mục tiêu, ý tưởng xây dựng trong thiết kế bài dạy, những ý tưởng đã thực hiện được, những ý tưởng chưa thực hiện được, những tình huống phát sinh đã thực hiện trong khi tiến hành bài học; những điều thấy tâm đắc và cả những điều tự thấy mình chưa hài lòng. Sau đó mời các ý kiến đóng góp của người dự, nội dung trao đổi cần tập trung vào việc nhận xét các hoạt động học tập của trẻ, tâm trạng, thái độ, sự hứng thú của trẻ: Hoạt động nào hiệu quả, hoạt động nào chưa hiệu quả? Câu hỏi nào hay? Tình huống nào tốt?... để từ đó điều chỉnh kế hoạch phù hợp cho tổ trưởng và mỗi giáo viên, không phân tích giáo viên, không đánh giá xếp loại giờ dạy.... Với hình thức này, tôi đã tổ chức hội thảo chuyên đề theo hai hướng: - Thứ nhất là hướng giúp giáo viên có thể học để khắc phục những điểm còn hạn chế trong chuyên môn bằng cách xây dựng đề cương lý thuyết một cách chi tiết, cụ thể và dễ hiểu sau đó tổ chức cho giáo viên thực hành. - Thứ hai là cho giáo viên được dự những tiết dạy thực hành ứng dụng sau khi đã nghiên cứu trao đổi lý thuyết; dự xong giáo viên nhận xét rút kinh nghiệm, sau đó mỗi giáo viên tự thực hiện tiết dạy theo nội dung chyên đề phù hợp chương trình độ tuổi, khả năng nhận thức của trẻ dưới hình thức thi đua. Bên cạnh việc tổ chức thực hiện các chuyên đề tại trường, tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên tham gia Hội nghị, hội thảo chuyên đề các cấp giúp cho giáo viên được giao lưu, học hỏi, mở rộng kiến thức, nâng cao tay nghề. độ trong công tác. Để tổ chức được chuyến tham quan học tập, tôi đã lên kế hoạch về thời gian, địa điểm, nội dung chuyến công tác và cách tổ chức thực hiện một cách cụ thể, khoa học để chuyến đi đạt kết quả tốt. Thực tế cho thấy rằng việc tổ chức phong trào thi giáo viên dạy giỏi có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên. Bởi vì khi tham gia thi giáo viên dạy giỏi đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ nghiên cứu nội dung chương trình kĩ hơn, tìm tòi những phương pháp, biện pháp thật linh hoạt, sáng tạo, tạo những tình huống mới lạ để trẻ tập trung chú ý hơn, hứng thú trong giờ học. Song song với hội thi là việc chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào của ngành học: - Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. - Cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”. 9- Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện và học sinh tích cực” - giúp trẻ “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Phong trào “Giỏi việc trường đảm việc nhà”,“Gia đình nhà giáo văn hóa”. Những cuộc vận động và phong trào trên nếu thực hiện tốt sẽ phát huy được truyền thống tập thể. - Trang bị các phương tiện: Máy tính, máy chiếu, ti vi, giấy A0, bút viết bảng...để giáo viên trong tổ tiện làm việc. Bên cạnh đó, tôi khuyến khích và tạo điều kiện cho những cá nhân có năng lực được phát triển lên từ các tổ; động viên những giáo viên còn hạn chế phấn đấu; hưỡng tổ trưởng chuyên môn phân công và giao nhiệm vụ giáo viên có chuyên môn tốt kèm những giáo viên hạn chế, lấy hiệu quả của việc giúp đỡ đó dể xét thi đua cuối năm; Song song với đó tôi cũng thống nhất với ban thi đua khen thưởng, đưa nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn vào tiêu chí thi đua và việc bình xét các tổ. Từ đó tạo động lực góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn. Do đó, tôi gợi ý để các tổ trưởng đề xuất khen thưởng những giáo viên có tinh thần tự giác, tích cực học tập, có nhiều đóng góp cho công tác chuyên môn, có sáng kiến kinh nghiệm được nhân rộng trong toàn trường. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến - Công tác tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, hỗ trợ kinh phí để áp dụng sáng kiến. - Trang thiết bị, đồ dùng, học liệu, tài liệu phục vụ các hoạt động dạy và học trong nhà trường. - Sự phối hợp của đồng nghiệp và đội ngũ giáo viên trong nhà trường. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Với sự chỉ đạo của bản thân đối với các tổ chuyên môn, sau một năm học sáng kiến đã dược áp dụng có hiệu quả tại trường mầm non Đại Tự; kết quả: Ban giám hiệu đã quan tâm một cách đúng mức tới tất cả các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ trong năm học. Đã tích cực chỉ đạo đổi mới phương pháp tổ chức sinh hoạt chuyên môn, mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn tổ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng toàn diện nhà trường. Đội ngũ tổ trưởng chuyên môn đã nhận thức được trách nhiệm và nhiệm vụ cần phải làm để nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn cho tổ; Biết xây dựng được kế hoạch sinh hoạt chuyên môn cụ thể, khoa học theo năm, tháng, tuần sát thực với chất lượng đội ngũ. Phát huy tối đa vai trò và trách nhiệm của mình, điều hành và tổ chức thực hiện tốt các buổi sinh hoạt chuyên 10 môn. Kịp thời nắm bắt và dự đoán được những khó khăn của giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để xây dựng nội dung sinh hoạt chuyên môn đi sâu các vấn đề trọng tâm, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho giáo viên, phân công nhiệm vụ rõ ràng, chỉ đạo tổ chức các hoạt dộng của tổ một cách khoa học, linh hoạt và hiệu quả. Nội dung sinh hoạt chuyên môn ở các tổ đa dạng, phong phú theo nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Hình thức sinh hoạt chuyên môn được thay đổi thường xuyên. Giáo viên tích cực chủ động làm việc theo nhóm, tập trung thảo luận và mạnh dạn đưa ra những ý kiến đóng góp để rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Không khí các buổi sinh hoạt chuyên môn sôi nổi hơn, thể hiện được tính dân chủ, tạo được mối quan hệ đồng nghiệp gắn bó và đoàn kết hơn. Giáo viên có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề; tạo sự chuyển biến tích cực trong tư du
Tài liệu đính kèm: