Trò chơi còn giáo dục ý thức tổ chức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể,
đồng thời trò chơi còn giúp các em hoàn thiện các kỹ năng ứng dụng học vấn
vào cuộc sống hàng ngày.
“Học mà chơi, chơi mà học” là một quan điểm rất đúng đắn trong quá
trình hướng dẫn và tổ chức chơi cho các em. Hiệu quả của trò chơi còn phụ
thuộc vào khả năng bản thân người hướng dẫn. Không nên dừng lại ở mức độ
giải trí đơn thuần mà phải xem trò chơi thực sự là một phương tiện giáo dục
có hiệu quả, dễ tiếp thu nhất, góp phần thực hiện trong việc thực hiện mục
tiêu giáo dục trong nhà trường.
Trò chơi chính là sự bổ trợ tích cực, cơ bản cho giờ chơi và hoạt động
tập thể. Qua đó, thành tích và kĩ năng được tăng lên. Nhiều trò chơi tốt, tích
cực còn có tác dụng hạn chế và đi tới bỏ xa những trò chơi không lành mạnh,
mất vệ sinh, phản tác dụng giáo dục.
Trên thực tế hiện nay, hoạt động vui chơi cho các em ở trường nói
chung và trong giờ thể dục nói riêng vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ những lý do đã nêu, đồng thời để góp phần hỗ trợ và củng cố
cho chơi và hoạt động tập thể thêm phong phú và có hiệu quả. Tôi mạnh dạn4
chọn đề tài này với chủ đề: “Lựa chọn và tổ chức trò chơi vận động trong
giờ chơi và hoạt động tập thể cho học sinh trường THCS Th¸i ThÞnh.
n tri giác của trẻ và nhớ lâu những gì chúng đã tiến hành hành động trên nó. Do đó trẻ thích tham gia những hoạt động mang tính thực tiễn có tính chất vận dộng. -Về tư duy: Tư duy của trẻ bậc thcs đang chuyển dần từ trực quan cụ thể sang trừu tượng khái quát. Học sinh trường ở từng khối lớp có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Tóm lại, đặc điểm tư duy của trẻ bậc thcs không có ý nghĩa tuyệt đối mà có ý nghĩa tương đối. 2.2-Đặc điểm nhân cách của học sinh THCS. Mặc dù sự phát triển nhân cách của học sinh thcs không mang tính chất “đột biến” nhưng trong giai đoạn này sự hình thành nhân cách của các em diễn ra khá rõ nét. Khi bước chân tới trường trẻ được gia nhập một cuộc sống mới: tập thể lớp học. Tất cả đều có sự ảnh hưởng đến sự hình thành quan hệ mới, hình thành thái độ với người khác đối với tập thể và đối với học tập, hình thành các phẩm chất của ý trí, tình cảm và đạo đức ở học sinh . *Về tính cách: 9 Phần lớn học sinh có nhiều nét tính cách tốt như: lòng vị tha, tính ham hiểu biết, tính hồn nhiên, tính chân thực, lòng thương người hồn nhiên trong quan hệ với người lớn, với thầy cô, bạn bè, hồn nhiên nên rất cả tin, tin vào sách vở, tin vào người tốt, tin vào khả năng của bản thân. Tất nhiên niềm tin này còn cảm tính, chưa có lý trí soi sáng. Chúng ta có thể tận dụng điều này để giáo dục các em, sao cho các em dần dần hết “ngây” nhưng còn giữ được chất “thơ”. Bên cạnh đó tính hay bắt chước cũng là một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này. Tính bắt chước chính là con dao hai lưỡi, bởi trẻ bắt chước cái tốt cũng lắm mà cái xấu cũng nhiều. Ngoài ra tính cách của các em cũng có nhược điểm là bướng bỉnh và bất thường cho nên chúng ta cũng phải chú ý đến điều này để giáo dục các em. *Về nhận thức: ë løa tuæi nµy nhận thức của học sinh rất rõ nét. Nhu cầu nhận thức chính là một trong nhu cầu tinh thần. Nhu cầu này đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ . Một đặc điểm quan trọng là nhu cầu nhận thức của trẻ ở giai đoạn này thường gắn liền với nhu cầu vui chơi, nhu cầu hoạt động tập thể trường lớp xã hội. *Về tình cảm Các em rất dễ xúc động, sống nhiều trong tình cảm. Tình cảm thẩm mỹ và tình cảm trí tuệ đang phát triển. Tình cảm của các em dễ nảy sinh nhưng chưa bền vững. *Về hứng thú: Ở lứa tuổi này các em chưa có hứng thú chuyên biệt với từng bộ môn, từng hoạt động, điều này dẫn đến các em học vì điểm. Đối với vui chơi các em thường hứng thú với hoạt động tập thể có quy tắc đòi hỏi sự cố gắng, sự khéo léo nhất định, hay những hoạt động vui chơi giàu trí tưởng tượng, luôn vận động. *Về năng khiếu và sự phát triển của năng khiếu: Học sinh thường bộc lộ năng khiếu thơ , ca, nghệ thuật ( múa hát , vẽ). 10 Việc phát triển những khả năng của các em trong lĩnh vực này là rất quan trọng và cần thiết để bồi dưỡng phát triển năng khiếu cho các em. Trò chơi sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển và rèn luyện tài năng nơi các em. Tóm lại, ở lứa tuổi này các em có những biến đổi sâu sắc cả về tâm sinh lý, nó mang đặc trưng riêng cho lứa tuổi này. Để tổ chức các hoạt động học tập cũng như các hoạt động vui chơi cho các em có hiệu quả thì người giáo viên cần phải nắm vững những đặc điểm cơ bản của lứa tuổi này để từ đó tổ chức hoạt động cho phù hợp với tâm sinh lý của các em. III- VAI TRÒ CỦA TRÒ CHƠI ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH THCS. 1. Vai trò của hoạt động trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Về vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của lý luận và thực tiễn đã khẳng định “Cuộc sống của con người được tạo bởi dòng các hoạt động” hay nói cách khác hoạt động chính là phương thức tồn tại của con người. Năng lực của trẻ được hình thành và bộc lộ trong quá trình hoạt động của các em. Khi ta chưa xem xét, chưa quan sát hoạt động của trẻ thì ta chưa thể nói một em nào đó có hay không có năng lực đối với loại hình hoạt động đó. Ví dụ ta không thể nói về năng lực âm nhạc của một em nếu em chưa học nhạc dù là hình thức sơ đẳng nhất chỉ có hoạt động học tập được tổ chức đúng đắn thì ta mới biết em đó có biểu hiện năng lực về mặt nào. Con người sinh ra không có sẵn năng lực đối với một loại hình hoạt động nào đó. Năng lực của con người chỉ được hình thành và phát triển nhân cách con người đặc biệt là khi con người còn ở lứa tuổi thiếu nhi. Hoạt động của trẻ rất phong phú và đa dạng. Các hoạt động này góp phần làm bộc lộ và phát triển những tính cách của trẻ. Do đó, vai trò của giáo viên thể dục là phải lựa chọn xây dựng tổ chức cho các em tham gia nhiều loại 11 hình hoạt động khác nhau, để qua đó các em có điều kiện bộc lộ, hình thành và phát triển năng lực riêng và nhân cách nói chung. 2. Vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Chơi là hoạt động cần thiết cho mọi người ở mọi lứa tuổi , nhưng đối với trẻ chơi chính là cuộc sống thực của chúng. Không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là sống, do đó ta có thể nói: chơi đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống trẻ, đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của chúng. Đúng như nhà giáo dục vĩ đại Ma-ren- kê đã tổng kết: Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng như những hoạt động công tác và phục việc phục vụ của người lớn. Chính vì vậy nên những người lao động tương lai được giáo dục trước hết là lúc chơi. Vậy để thấy rõ được hoạt động vui chơi đối với cuộc sống của trẻ trước hết chúng ta phải biết được thế nào là chơi, hoạt động vui chơi ? 2.1. Trò chơi Trong nhµ trường hiện nay hoạt động vui chơi không kém phần quan trọng. Các em “Học mà chơi- chơi mà học”. Trò chơi một chủ đề mà nhiều tác giả trong và ngoài nước trên nhiều lĩnh vực khoa học đề cập đến và cũng được nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau. Nhưng để đi đến một cái chung thì chưa, hay nói một cách khác đi là đẻ hiểu thế nào là trò chơi và đưa ra khái niệm cụ thể thì chưa mà mới chỉ miêu tả hoặc lý giải nó mà thôi. Để một trò chơi diễn ra phải có thời gian và địa điểm cụ thể. Với từng trò chơi nó yêu cầu có không gian và thời gian nhất định có thể là rất rộng mà cũng có thể rất hẹp. Vì trò chơi là một hành động giả định, nằm ngoài cuộc sống bình thường nên không gian và thời gian diễn ra nó cũng phải ở phạm vi riêng. Khi nói “ Trò chơi là một hoạt động vô thường không ai có thể xác định trước diễn biến của nó cũng như kết quả cuối cùng của trò chơi”. Điều này chỉ đúng với trò chơi thể thao, còn trong các trò chơi khác thì chưa hoàn toàn chính xác, ví dụ như trong trò chơi sắm vai thì khi bắt đầu trò chơi, 12 người tham gia đã phần nào biết được diễn biến của trò chơi và kết quả của nó. Tuy nhiên trong khi chơi, luôn có giới hạn giành cho sự sáng tạo của ng-êi chơi, đây là một đặc điểm chung của trò chơi. Từ điển tiếng Việt giải nghĩa trò chơi như sau: “ Trò chơi là một loại hình hoạt động, trong các tình huống có điều kiện mà hoạt động đó hướng đến sự tái tạo và lĩnh vực kinh nghiệm xã hội được ấn định trong các phương thức tồn tại của các hoạt động vật chất, trong các đối tượng của khoa học và văn hoá. Qua trò chơi với tư cách là hoạt động thực tiễn xã hội các tiêu chuẩn của cuộc sống và hoạt động của con người được tái tạo việc tuân thủ các tiêu chuẩn đó đảm bảo việc nhận thức và lĩnh hội hiện thực vật chất và xã hội, đảm bảo sự phát triển trí tuệ, tình cảm đạo đức của nhân cách”. Khái niệm này đã khẳng định được bản chất xã hội của trò chơi. Trò chơi được xem là một hoạt động xã hội nó mang tính chất xã hội cả về nguồn gốc ra đời, nội dung và hình thức biểu hiện. Và khái niệm này cũng khẳng định tác động tích cực của trò chơi với sự phát triển nhân cách. Có nhiều trò chơi cụ thể khác nhau, mỗi trò chơi cụ thể lại có những đặc điểm riêng của mình, tuỳ theo góc độ nghề nghiệp, tuỳ theo góc độ quan sát mà các nhà nghiên cứu định ra các tiêu chuẩn khác nhau. *Một số dạng trò chơi cho học sinh . + Trò chơi phát triển trí tuệ là một trò chơi có luật, có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ của người để giải quyết các tình huống xảy ra trong trò chơi nhằm đạt được những nhiệm vụ nhận thức nhất định. +Trò chơi vận động: Đây là loại trò chơi nhằm hình thành và phát triển thể lực của học sinh. +Trò chơi lắp ghép xây dựng: Là trò chơi khi đứa trẻ phản ánh hoạt động xây dựng của xã hội người lớn như: xây dựng nhà cửa , lâu đài, công viên, kho tàng, trường học, 13 +Trò chơi dân gian: là loại trò chơi có từ rất lâu, nó phản ánh đời sống tâm lý, thiên nhiên của từng dân tộc nhằm giáo dục, xây dựng nhân cách văn hoá dân tộc cho các em học sinh. 2.2. Hoạt động vui chơi Trong trường hiện nay hoạt động vui chơi không kém phần quan trọng các em được “Học mà chơi, chơi mà học” nếu đến trường chỉ học văn hoá mà không có các hoạt động khác các em sẽ nhanh chóng không phù hợp với lứa tuổi các em và rất sợ khi phải đến trường. Như Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi phụ trách thiếu nhi năm 1946 “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng học”. Vì vậy trong nhà trường THCS chúng ta phải hết sức chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho các em để các em được mở rộng giao lưu với bạn bè, học hỏi, đoàn kết, thương yêu gần gũi nhau hơn. Hoạt động vui chơi không phải là một khái niệm khoa học với đúng nghĩa của nó vì vui chơi là một hoạt động mang tính tự phát, tự nguyện của con người nhằm thoả mãn nhu cầu sở thích hứng thú, phát triển thể chất , trí tuệ, ý trí, tình cảm của cá nhân. Theo từ điển tiếng Việt-2000 NXB Đà Nẵng – thì thuật vui chơi được tác các giả giải nghĩa như sau: “ Vui chơi là một hoạt động giải trí một cách thích thú”. Hoạt động của trẻ thường có những đặc điểm sau: 1- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động mang tính chất vô tư. Trong khi chơi, đứa trẻ không chú tâm nhằm tới một lợi ích thiết thực nào cả. Chính vì vậy nhiều nhà tâm lý học cho rằng: “Động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động chứ không phải nằm ở kết quả, hành động chơi mang kết quả tự do”. 2- Hoạt động vui chơi của trẻ là hoạt động mô phỏng lại cuộc sống của người lớn, mô phỏng lại những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Như vậy, chính các hoạt động vui chơi đã làm nảy sinh trí tưởng tượng của trẻ, kích thích cho trí tưởng tượng phát triển. 14 3- Hoạt động vui chơi của trẻ không phải là một hành động bắt buộc mà là một hoạt động mang tính tự do. Vui chơi là một hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm nên hành động chơi không buộc phải chấm theo phương thức chặt chẽ của hoạt động thực tiễn. 4- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động độc lập và tự điều khiển. Chính tính độc lập và sự tự điều khiển hành vi đó không những cho trẻ niềm hoà hứng và lòng tự tin trong cuộc chơi mà còn giúp cho chúng phát huy khả năng tự lập của mình trong cuộc sống. 5- Hoạt động vui chơi của trẻ là một hoạt động mang tính màu sắc xúc cảm chân thực mạnh mẽ. Như vậy, hoạt động vui chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mỗi nội dung chơi, trò chơi đều đòi hỏi những điều kiện riêng và tất cả mọi hình thức đều kích thích, đều giúp các em phát hiện ra chính mình và thế giới xung quanh. Điều đáng nói là nhân cách của trẻ muốn được phát triển một cách toàn diện thì những hoạt động của trẻ phải được diễn ra trong quá trình tác động qua lại giữa các cá nhân với những người xung quanh. Ngoài ra tổ chức vui chơi cho trẻ một cách khoa học hợp lý mà còn mang một ý nghĩa về mặt xã hội không nhỏ. Nói tóm lại, vui chơi là trường học để vào đời, là hoạt động quan trọng để khuôn đúc hình thành nên tâm lý và nhân cách trẻ. Do vậy, nhiệm vụ của mỗi giáo viên là phải nắm được điều này để tiến hành giáo dục trẻ- những chủ nhân tương lai của đất nước. IV - TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO HỌC SINH TRONG GIỜ CHƠI VÀ HOẠT ĐỘNG TẬP THỂ: Mục đích cơ bản là giúp học sinh tổ chức những hoạt động của mình, thông qua trò chơi. Ở đây, học sinh có thể lập kế hoạch bàn những biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện. Nhờ đó, giáo dục cho học sinh nhiều nét tính cách, phẩm chất, nhân cách tích cực. 15 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO HỌC SINH THCS TRONG CÁC GIỜ CHƠI VÀ HOẠT ĐỘNG TẬP THỂ Theo như phần cơ sở lý luận đã trình bày ở trên thì hoạt động vui chơi có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh thcs. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh ở trường nói chung và ở các giờ hoạt động tập thể nói riêng rất cần được quan tâm. Thế nhưng trong thực tế, ở trường học hiện nay, thì việc nhận thức tầm quan trọng của hoạt động này và việc tổ chức nó ra sao? Nguyên nhân của việc tổ chức đó, những nguyện vọng của học sinh như thế nào? Để tìm hiểu những vấn đề này chúng tôi tiến hành các bước điều tra thực trạng như sau: I - THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH VỀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI: 1- Thực trạng nhận thức của giáo viên về vai trò của hoạt động vui chơi: Tiến hành điều tra giáo viên về việc nhận thức vai trò của hoạt động vui chơi trong sự hình thành phát triển nhân cách học sinh thcs bằng cách ra các trò chơi, yêu cầu giáo viên đánh dấu (x) vào các vai trò theo 3 mức độ. Quan trọng, không quan trọng, phân vân. Kết quả được như sau: STT Các vai trò Các mức độ Quan trọng Không quan trọng Phân vân 1 Góp phần phát triển thể chất 100% 2 Góp phần phát triển thẩm mỹ 65% 15 20 3 Góp phần phát triển trí tuệ 93% 7 4 Hình thành hành vi đạo đức 90% 8 2 5 Hình thành tinh thần tập thể 100% 6 Hình thành những phẩm chất tâm lý 98% 2 Bảng 1:Nhận thức của giáo viên về vai trò của hoạt động 16 Theo kết quả trên, ta thấy các thầy cô đều thừa nhận các hoạt động vui chơi có vai trò phát triển mọi mặt nhân cách của học sinh: thẩm mỹ, thể chất, trí tuệ, đạo đức, ý thức tập thể, các phẩm chất tâm lý. Tuy nhiên sự chênh lệch về tỷ số giữa các vui chơi của hoạt động vui chơi không đáng kể. Khi được hỏi về vấn đề: Việc tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh thcs trong giờ hoạt động tập thể có tác dụng gì? Thì phần lớn giáo viên đều cho rằng: Tổ chức các hoạt động vui chơi cho học sinh trong giờ hoạt động tập thể có rất nhiều tác dụng như rèn luyện tính tự giác, tinh thần tập thể, tăng cường khả năng giao tiếp, giải trí mệt mỏi, căng thẳng cho học sinh, đáp ứng nhu cầu vui chơi, rèn luyện tính trung thực cho học sinh đặc biệt là 100% giáo viên đều cho rằng tổ chức các hoạt động vui chơi sẽ làm cho giờ hoạt động tập thể trở nên hấp dẫn đối với học sinh. Những tác dụng này cũng chính là các mặt: Đức, trí, thể, mỹ các phẩm chất tâm lý. STT Các tác dụng Kết quả (%) 1 Rèn luyện tinh thần trách nhiệm cho học sinh 100 2 Rèn luyện tính tự giác cho học sinh 98 3 Đáp ứng nhu cầu vui chơi cho học sinh 100 4 Tăng cường khả năng giao tiếp của học sinh 95 5 Giải trừ mệt mỏi 100 6 Rèn luyện tính trung thực, tinh thần tập thể 85 7 Làm cho giờ hoạt động tập thể thêm hấp dẫn hơn 85 Bảng 2: Tác dụng của việc tổ chức các hoạt động vui chơi trong giờ chơi và hoạt động tập thể. Như vậy, phần lớn giáo viên ở các trường thcs mà chúng tôi tiến hành điều tra đều thừa nhận các hoạt động vui chơi trong giờ hoạt động tập thể có tác dụng rất lớn về nhiều mặt cho học sinh . Kết quả này đã phản ánh được mức độ nhận thức của giáo viên về vai trò của hoạt động vui chơi. 2-Thực trạng nhận thức của học sinh về vai trò của hoạt động vui chơi: Khi điều tra vấn đề này đối với học sinh, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi: Theo con, các hoạt động vui chơi đã giúp con những gì? Và tôi đã liệt kê ra 17 một số tác dụng của hoạt động vui chơi, các con sẽ đánh dấu (X) vào ô phù hợp. Kết quả thu được như sau: STT Các tác dụng Kết quả (%) 1 Được vui chơi cùng bạn 90 2 Vui vẻ thoải mái hơn 99 3 Có cơ hội chiến thắng các bạn cùng lớp 40 4 Có hành vi, thói quen tốt 65 5 Không phải học 30 6 Có thêm hiểu biết 60 7 Tự tin hơn 65 8 Có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao 70 9 Thích làm gì cũng được 40 10 Khoẻ hơn, nhanh nhẹn hơn 85 11 Đoàn kết và có tập thể hơn 90 Bảng 3: Nhận thức của học sinh về vai trò, tác dụng của hoạt động vui chơi. Theo kết quả trên, về cơ bản các em có nhận thức tốt về tác dụng của trò chơi đối với mình. Trong câu hỏi mà chúng tôi đưa ra một số tác dụng tiêu cực như: Không phải học, thích làm gì cũng được, có cơ hội chiến thắng các bạn cùng lớp, nhưng số em lựa chọn câu này ít. Điều này càng cho thấy các em đã nhận thức được vai trò và tác dụng của hoạt động vui chơi với chính bản thân các em. Nhìn chung, các thầy cô giáo và các em học sinh đã nhận thức được vai trò, tác dụng của hoạt động vui chơi tới sự hình thành và phát triển nhận thức của học sinh. Tuy nhiên, đây mới chỉ là nhận thức còn trên thực tế hoạt động này đã được quan tâm, tổ chức như thế nào? Chúng ta tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng vủa vấn đề này. II- THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG NÓI CHUNG VÀ HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI NÓI RIÊNG TRONG GIỜ HOẠT ĐỘNG TẬP THỂ. 1. Thực trạng về nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động trong giờ hoạt động tập thể 18 Từ trước đến nay, nhà trường đã có chú ý thực hiện giờ hoạt động tập thể, tuy nhiên, việc thực hiện đó vẫn làm theo sự chỉ đạo chung của ngành, mang tính hình thức, chưa có sự cải tiến về nội dung, hình thức tổ chức cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh và tình hình đất nước hiện nay. Vì thế, hiệu quả của giờ hoạt động tập thể chưa cao, còn nhiều hạn chế. Những hạn chế của giờ hoạt động tập thể được thể hiện ở các mặt sau: 1.1.Về nội dung: Giờ thể dục chủ yếu là tập các bài hoạt động tập thể, nhận xét bình bầu cho học sinh Các hoạt động vui chơi giải trí chưa được khai thác và sử dụng hợp lý. 1.2.Về hình thức: Chủ yếu là giáo viên điều khiển, chính vì vậy cần phải đổi mới nội dung và hình thức làm cho các em hứng thú hơn. Khi tiến hành điều tra các nội dung hoạt động trong giờ hoạt động tập thể giáo viên thường xuyên tổ chức cho học sinh tôi đã đưa ra 7 nội dung yêu cầu giáo viên và học sinh đánh dấu (x) vào các nội dung đã được tổ chức theo 3 mức độ, thường xuyên, ít khi, chưa bao giờ. Kết quả thu được như sau:Bảng 4: Nội dung các hoạt động đã được tổ chức vào mức độ của nó. STT Nội dung các hoạt động Mức độ tổ chức Thường xuyên (%) Ít khi (%) Chưa bao giờ (%) 1 Giáo viên điều khiển 100 00 00 2 Giáo dục trong lớp thông qua môn học 96 03 01 3 Giáo dục thông qua hoạt động 69 26 05 4 Học sinh sơ kết, tổng kết trò chơi 80 18 02 5 Tổng điểm và kết quả do giáo viên tổng kết 70 25 5 6 Vui chơi giải trí 63 36 01 7 Học sinh làm quản trò 100 19 Nhìn vào bảng trên ta thấy nội dung của các giờ khá phong phú, đa dạng và những nội dung này cũng rất cần thiết, cần được duy trì tổ chức cho học sinh. Nhưng tỉ lệ các hoạt động được tổ chức thường xuyên chưa nhiều. Quan sát việc tổ chức các hoạt động trong giờ học hoạt động tập thể và trao đổi với một số giáo viên, chúng tôi được biết, thời gian mà giáo viên giành cho hoạt động vui chơi là chưa hợp lý. Đối với họ việc hoàn thành môn dạy trong tuần quan trọng hơn. Vì thực chất khi tổ chức các hoạt động như vui chơi, giải trí, hoặc tổ chức các cuộc thi theo chủ đề.... thì người giáo viên cần chuẩn bị kỹ, tốn nhiều thời gian mà cơ sở vật chất cần để sử dụng cho các hoạt động này ở các trường hiện nay cũng chưa được đầy đủ. Như vậy, nội dung các hoạt động cho học sinh hoạt động tập thể khá phong phú nhưng chưa thực sự được quan tâm, tổ chức đúng mức, tỉ lệ những hoạt động giáo dục làm cho học sinh tự nguyện tích cực, tự giác tham gia còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầ
Tài liệu đính kèm: