I.ĐẶT VẤN ĐỀ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Một trong những thể loại được đưa vào sách Ngữ Văn mới khá nhiều là thể
ký: Chỉ riêng ở sách giáo khoa Ngữ Văn 6 - tập 2 đã có 5 tác phẩm. Học sinh lớp
6 là đối tượng còn non nớt ngây thơ. Một bài ca dao, một câu chuyện cổ có lẽ lôi
cuốn hấp dẫn các em dễ dàng hơn là những trang ký ngồn ngộn sự sống. Đó
chưa kể những bài ký nặng về chất chính luận, thiên về sự kiện, quả là một thử
thách đối với các em. Vậy làm thế nào để các em tiếp nhận với những bài ký
một cách hứng thú, phát hiện ra được nét riêng, hấp dẫn ở mỗi tác phẩm là điều
trăn trở khi tôi dạy thể loại này cho đối tượng lớp 6.
Với những băn khoăn trên tôi đã cố gắng khai thác các cách tiếp cận
những bài ký khác nhau. Cùng thể loại nhưng bài thì thiện về ký sự( sự việc),
bài thì thiên về cảm xúc( tuỳ bút), bài lại thiên về chất chính luận( Lòng yêu
nước), bài lại thiên về thuyết minh (Cây tre Việt Nam), bài ký mở đầu cho chuỗi
tác phẩm ấy là "Cô Tô" của Nguyễn Tuân.
. Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát, tàn phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn ta không nhận thấy điều đó; Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một sắc thái mới, tinh khôi, quang đãng như vừa được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên trong những nét đẹp đầy sức sống, như một cuộc hồi sinh kỳ diệu. Nếu chú ý đọc kỹ tác phảm ta sẽ thấy rất nhiều câu văn, hình ảnh, tác giả đã nhấn mạnh vào thời khắc sau bão. Ví dụ " Sau mỗi lần giông bão bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy..." và một loạt hình ảnh minh hoạ cho điều đó. " Cây lại thêm xanh mượt Nước lại lam biếc đậm đà hơn Cát lại vàng giòn hơn nữa... Lưới càng thêm nặng..." Một loạt phụ từ được sử dụng: "Lại"( 3 lần), "Càng" (1 lần) để diễn tả ý nghĩa tiếp diễn tăng tiến: Cảnh vật như ta thấy quả thật là đẹp hơn, đậm sắc hơn nhiều khi bão vừa đi qua, cứ như là một phép màu nhiệm. + Ở bức tranh thứ hai: Cảnh mặt trời lên ta cũng nhận thấy điều này: Mặt trời bừng lên trong một không gian thật mới lạ"Sau trận bão, chân trời ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi..." Dường như khi trận bão đi qua giông tố phũ phàng mới đủ sức gột rửa để " lau" đi hết "mây, bụi" cho nên trở nên trong veo" như một tấm kính": làm nền cho vầng thái dương xuất hiện. Phải chăng vì thế mà "quả trứng thiên nhiên" ấy càng "hồng hào", "thăm thẳm", "đường bệ" chẳng khác gì một "mâm lễ phẩm" tiến ra từ trong bình minh. _ Hinh ảnh so sánh “y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ ..trên muôn thưở biển Đông” Nguyễn Tuân đã ví cảnh mặt trời mọc như một “mâm lễ phẩm”mà thiên nhiên ban tặng cho con người để dâng lên thần biển uy nghiêm , “mừng cho sự trường thọ”của những người ngư dân, cầu cho một cuộc sống an bình đối với người dân miền biển. Bên cạnh vẻ đẹp tráng lệ của mặt trời tác giả còn điểm xuyết một số nét vẻ bâng quơ nhưng theo tôi thật tài hoa và tinh tế. Đó là hình ảnh "Vài chiếc nhạn 5 mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể...", "Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh..." Mùa thu - mùa của bão tố, vậy ,mà lúc này đây - mặt bỉển thật quá đỗi bình yên. "Chiếc nhạn" - hình ảnh mỏng manh như một chiếc lá và phải nhìn từ xa. Còn "Một con hải âu" lại nhìn từ một góc độ rất gần, nên rất rõ. Một: là chiếc nahn mùa thu; một nữa là hải âu - là dấu hiệu của điềm lành ( vì hải âu vốn báo hiệu sự bình yên). Chúng xuất hiện trong những động tác " chao đi chhao lại", "là là nhịp cánh" gợi cảnh tượng bình yên biết bao; làm cho bức tranh biển ấy vừa tĩnh lại vừa động. Những nét vẽ mỏng manh, thanh tú ấy như một dấu hiệu để khẳng định: Cảnh vật nơi đây dường như chưa từng đi qua bão tố, đã thật sự bình yên. +Ở bức tranh sinh hoạt là nhộn nhịp của cảnh gánh nước, chuẩn bị cho những chuyến ra khơi. Điểm nhìn của tác giả là từ cái giếng nước ngọt - sự sinh hoạt hội tụ ở đây. Tác giả đã tả " Cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến, đạm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền..." Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo" Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam, lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào..." Hình ảnh thật sống động và thật là thú vị; sách bình giảng văn 6 đã viết:" Hình ảnh này để thừa nhận đây là một cái giếng có thực chứ không phải trong cổ tích..." Theo tôi hình ảnh này còn có một ý nghĩa nữa: Cái lá cam lá quýt ấy có vẻ như một nét tả bình thường nhưng lại đầy dụng ý của tác giả: Nhờ có nó - phải có nó - những chiếc lá ấy- mới là bằng chứng để minh chứng cho trận bão vừa đi qua. Còn nếu không, cuộc sống nơi đây diễn ra thanh bình, khẩn trương nhộn nhịp, hối hả, dường như không hề có dấu tích của bão tố. Sự sinh hoạt mau chóng hồi sinh ấy muốn nói với chúng ta điều gì? Dấu vết của bão tố còn đó mà người dân đảo như đã quên hẳn nó, nhịp sống lại mau chóng hồi sinh- phải chăng là một cánh rất khéo để tác giả khẳng định sức sống, sự lao động hăng say trong công cuộc xây dựng XHCN những năm 70 của người dân biển đảo Cô Tô. Mặt khác để khẳng định sức sống của chính họ - đã từng quen với bão tố thiên nhiên, bão tố cuộc đời - điềm tĩnh và bình thản trước nó. Điều này rất thật, rất hay và cũng giàu ý nghĩa. Đây là những gì mà Nguyễn Tuân muốn ca ngợi khi tới vùng đất phía Đông Bắc của Tổ quốc này để thực tế và sáng tác. Ta càng thấy rõ sức sống của quần đảo này - một sự trân trọng và trìu mến của tác giả dành cho cảnh và người nơi đây. - Một hình ảnh nữa cũng cần chú ý ở đây là cảnh" Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng, yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm ccá cho lũ con lành...". Biển cả trong cảm nhận của nhà văn thật bao dung, hiền hậu, 6 không ai nghĩ rằng nó vừa trải qua giông tố, thịnh nộ. Lúc này đây biển thật hiền sau cơn bão, như lòng mẹ ấp ủ cho con vậy, hình ảnh thật cụ thể mà sáng tạo đã tô đậm cho cái không khí “đậm đà mát nhẹ” mà Nguyễn Tuân đã nhận định ở phần đầu : “Cái giếng nước ngọt nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Tát cả những chi tiết trên theo tôi nhà văn đã có dụng ý miêu tả để người đọc cảm nhận sự hồi sinh kỳ diệu của thiên nhiên và con người sau cơn bão chứ không phải là một thời điểm nào khác. Khẳng định sức sống của con người và cuộc sống nơi đây cũng là một cách để ngợi ca công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc những năm 70; bởi vậy, những trang ký rất thực , kể tả chuyện mà thật vô cùng lý thú và lôi cuốn người đọc. Một điều nữa theo tôi cũng cần lưu ý là cho học sinh nhận rõ thể loại của văn bản. Nếu không các em sẽ không phân biệt được đây là bài ký hay là bài văn miêu tả, nhất lại là bài mở đầu cho thể loại này. Muốn vậy, người dạy phải lưu tâm những chi tiết sau: - "Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô..." - "... Ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân..." - Anh hùng Châu Hoà Mãn; HTX Bắc Loan Đầu; Những địa danh: Vịnh Bắc Bộ, Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam... Những tên gọi,cách chỉ thời gian, không gian này là có tính xác thực. Giáo viên có thể dẫn dắt học sinh để các em hiểu: Cái đẹp ấy vốn có trong cuộc sống nhưng hoàn hảo hơn qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhà văn, từ đó để khái quát nên cái tài, cái tâm của tác giả. Từ những suy nghĩ của bản thân như trên, tôi đã soạn một giáo án hoàn chính như sau: 5.3 Giáo án minh hoạ 7 Tiết 103-104 Văn bản : CÔ TÔ Nguyễn Tuân I – Mục tiêu bài học 1. Kiến thức : a.Nội dung : Cảm nhận được vẻ đẹp sinh động, trong sáng của những bức tranh thiên nhiên và đời sống ở vùng đảo Cô Tô .Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. b. Nghệ thuật : thấy được nghệ thuật và tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. 2. Kĩ năng : - Rèn kĩ năng đọc ,cảm thụ, hiểu rõ hơn về thể loại kí. - Biết cách tổng hợp kiến thức, nêu nhận xét, đánh giá 3. Thái độ : -Giáo dục lòng yêu mến thiên nhiên, cuộc sống, mở rộng ra là lòng yêu nước. 4.Tích hợp : - Tích hợp liên môn Lịch sử, Địa Lí, Giáo dục công dân, Mĩ thuật. 5.Phát triển năng lực : - Năng lực giao tiếp Tiếng Việt ( nghe, nói,đọc, viết) -Năng lực hợp tác , phản biện -Năng lực cảm thụ , thẩm mĩ +Nhận ra giá trị thẩm mỹ +Cảm nhận rung động trước cái đẹp. II.Phương pháp : - Phân tích, bình giảng,đàm thoại - Nêu vấn đề, tạo tình huống, thảo luận nhóm III.Sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh ; - Thiết kế bài giảng bằng phần mềm Power Point - Yêu cầu học sinh soạn bài, có kiểm tra đánh giá. IV.Bài mới 1.Vào bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung bài học ? GV: Dựa vào chú thích () SGK trang 90 và phần tự tìm hiểu thêm của các con về tác giả, các con hãy giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Tuân? I/ Đọc – tìm hiểu chú thích : 1. Tác giả : (SGK/66) 8 ( Phương pháp: hoạt động nhóm - GV nêu câu hỏi: Hãy giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Tuân? - Các nhóm cùng quan sát kết quả của nhau và bổ sung ý kiến. • Nguyễn Tuân rất giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc (yêu tiếng mẹ đẻ, yêu những kiệt tác văn chương cổ điển, yêu âm nhạc dân gian, yêu thiên nhiên ). • Nguyễn Tuân rất tài hoa, ông am hiểu nhiều ngành nghệ thuật và vận dụng sự am hiểu đó để sáng tác văn chương rất độc đáo. • Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất phong phú, độc đáo và tài hoa.( Chiếu slides một số tác phẩm chính của Nguyễn Tuân và đoạn video clip về tác giả Nguyễn Tuân) - HS theo dõi đoạn video tư liệu về tác giả Nguyễn Tuân. - GV: Hướng dẫn HS cách đọc đoạn trích: - GV đọc 1 đoạn sau đó gọi ít nhất 2 HS đọc VB. ? GV: Con hãy nêu thể loại, vị trí của đoạn trích? Trong bài ký rất nhiều lần tác giả kể, tả ngôi thứ nhất, chứng tỏ điều gì? HS trả lời. GV chốt kiến thức: Vị trí ấy chứng tỏ: - Người viết có mặt khắp nơi. - Kể, ghi chép những điều tai nghe mắt thấy. *GV chiếu các Slides về hình ảnh các chú thích : - Cô Tô: Giới thiệu đoạn video clip về cảnh đảo Cô Tô. - Giã đôi: - Đá đầu sư: - Ngấn bể: 2.Tác phẩm a. Thể loại: Kí b. Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần cuối của bài kí Cô Tô. c. Chú thích: 3. Bố cục: 3 phần: - Đoạn 1: Từ đầu “ở đây” → Toàn cảnh 9 - Hải sâm: - Cá hồng: ? GV: Theo con có thể chia văn bản Cô Tô làm mấy phần? Nêu nội dung chính từng phần? - HS trả lời. - GV có thể khái quát hóa bằng sơ đồ trên máy chiếu Hoạt động 3: Tìm hiểu chi tiết Mục tiêu: HS hiểu, cảm thụ được giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Phương pháp: Vấn đáp tìm tòi; thuyết trình; đọc sáng tạo tái hiện hình tượng. Thời gian: 20 phút. - GV chuyển ý: Phân tích văn bản theo bố cục: + Tiết 103: Quang cảnh Cô Tô sau cơn bão. + Tiết 104: Hai phần còn lại ? GV: Bức tranh thiên nhiên Cô Tô được tác giả ghi lại vào thời điểm nào? Vào thời điểm đó Cô Tô có gì đặc biệt? HS trả lời. => GV bình: Một thời điểm cụ thể chính xác đó là đặc điểm của thể ký. Đây là một khoảnh khắc bình yên khi cơn bão đã đi qua. Tại sao tác giả lại chọn thời điểm này để tả về thiên nhiên Cô Tô, qua phần tìm hiểu tiếp theo ta sẽ lý giải. ? GV: Tác giả đã chọn vị trí nào để quan sát và miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô? Vị trí quan sát đó có tác dụng như thế nào? - HS trả lời: Vị trí quan sát: trên nóc đồn. Tác dụng: dễ bao quát toàn cảnh biển đảo Cô Tô. ? GV: Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua đã được miêu tả như thế nào? Con hãy tìm các từ ngữ, hình ảnh diễn tả vẻ đẹp ấy trong đoạn đầu của bài? - HS : Bầu trời “trong sáng”, cây “xanh mượt”, Cô Tô với vẻ đẹp trong sáng sau khi trận bão đã đi qua. - Đoạn 2: “Mặt trờinhịp cánh” → Cảnh mặt trời mọc trên biển. - Đoạn 3: Còn lại. → Cảnh sinh hoạt trên biển. II/ Đọc – tìm hiểu văn bản: 1.Toàn cảnh Cô Tô sau cơn bão: - Thời gian: + Ngày thứ năm trên đảo + Cô Tô sau cơn bão - Điểm nhìn quan sát: trên nóc đồn - Vẻ đẹp của đảo Cô Tô: + Trong trẻo, sáng sủa. 10 nước biển “lam biếc”, cát “vàng giòn”, cá nặng lưới.. ?GV: Con có nhận xét gì về việc sử dụng từ ngữ (đặc biệt là các tính từ), hình ảnh diễn tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô? - Hs nêu nhận xét: ?GV: Tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nào nữa? Có gì độc đáo trong cách sử dụng ấy? HS phát hiện: Ẩn dụ “vàng giòn”: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. → Cảm nhận được sắc vàng - khô đến độ giòn của cát - một màu sắc ấm nóng và khoẻ khoắn. ?GV: Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát, tàn phá của nó. Ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn con có nhận thấy điều đó không? - Hs trả lời. ?GV: Qua việc miêu tả của tác giả con hình dung như thế nào về Cô Tô sau trận bão - HS nêu cảm nhận. - GV bình chốt: Cách dùng từ (tính từ, cụm tính từ) có tính gợi tả cao kết hợp các từ chỉ mức độ để diễn tả ý nghĩa tiếp diễn tăng tiến làm cho người đọc hình dung được khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng, của vùng đảo Cô Tô. Thông thường khi cơn bão đi qua, người ta thường nhận thấy sự đổ nát, tàn phá của nó. Riêng ở bài ký này, qua các cảm nhận của nhà văn ta không nhận thấy điều đó; Thậm chí cảnh vật lại hiện lên như mang một sắc thái mới, tinh khôi, quang đãng như vừa được gột rửa, thay áo mới; cảnh vật bừng lên trong những nét đẹp đầy sức sống, như một cuộc hồi sinh kỳ diệu cho ta thấy Cô Tô đã đẹp nhưng giờ đây - sau cơn bão - nó lại hồi sinh nhanh chóng trong một sức sống mãnh liệt, cứ như là một phép màu nhiệm. => Thời khắc mà những sắc màu thiên nhiên thể + Bầu trời cũng trong sáng. + Cây cối xanh mượt, + Nước biển lam biếc, đậm đà. + Cát vàng giòn. + Cá nặng lưới. 11 hiện rõ nhất, ấn tượng nhất, ngòi bút tài hoa của tác giả bộc lộ rõ nhất. Từ bức tranh này chắc con đã hiểu vì sao tác giả lại chọn tả Cô Tô sau cơn bão? => Chọn được vị trí quan sát thích hợp (trên cao) và chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu để tả đã làm nổi bật được đối tượng cần tả. (Tích hợp văn miêu tả). ? GV: Con hãy phát hiện câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm của tác giả khi ngắm toàn cảnh Cô Tô? - HS phát hiện câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm của tác giả: “Cảm thấy yêu mến như bao.mùa sóng ở đây” GV: Tác giả đã có cảm nghĩ gì khi ngắm toàn cảnh Cô Tô? Qua đó con hiểu gì về tình cảm của tác giả. Khái quát bằng sơ đồ tiểu kết của bài . Trong trẻo,tươi sáng Sức sống mãnh liệt. Sự hồi sinh kỳ diệu → Tác giả yêu mến, gắn bó gần gũi như với quê hương Chuyển tiết 104 Hoạt động của giáo viên HĐHS Nội dung cần đạt Hoạt động 1 : Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cảnh mặt trời mọc trên biển 2. Cảnh mặt trời mọc trên biển đảo Cô Tô GV gọi hs đọc đoạn 2 trong văn bản . ? Tác giả chọn điểm nhìn miêu tả ở đâu ? Việc lựa chọn điểm nhìn này có tác dụng gì ? - Nơi tận cùng của mũi đảo, đứng đó có thể quan sát cụ thể kĩ càng, tận mặt chiêm ngưỡng cảnh mặt trời mọc đồng thời cho ta thấy tâm thế của người nghệ sĩ khao khát sẵn sàng tìm đến tận cùng cái đẹp của thiên nhiên. ? Quá trình đi ngắm mặt trời đã diễn ra như thế nào? Nhận xét về quá trình đó? - Dậy sớm ( tử canh tư) ra thấu đầu mũi đảo, ngồi “rình” mặt trời . Hs đọc Hs suy nghĩ trả lời Hs trình bày ý kiến cá nhân. _ hs suy nghĩ a.Sự chuẩn bị của tác giả : - Điểm nhìn : trên đá đầu sư, tận cùng mũi đảo. -Cách quan sát: dậy từ sớm,từ canh tư→ ra tảng đá đầu sư→ “rình” mặt trời. → Công phu , tỉ mỉ Cảnh biển Cô Tô 12 - Sự chuẩn bị kì công tỉ mỉ của NT GV: Nói về việc đi ngắm mặt trời mọc trên biển, Nguyễn Tuân đã dùng cụm từ “rình mặt trời lên”. Theo giải nghĩa thì “rình” là động từ chỉ hành động quan sát một cách kĩ, kín đáo để thấy sự xuất hiện của sự vật, sự việc. ? Tại sao Nguyễn Tuân không dùng từ “ngắm” hay” trông” mà lại dùng từ “rình”? GV chốt : Từ “rình” cũng là ngắm nhìn, nhưng ngắm nhìn bằng tất cả sự trông đợi thích thú, nóng lòng háo hức, xen lẫn sự tò mò như muốn khám phá những điều bí mật của thiên nhiên mà con người chưa khám phá hết .Chỉ một từ “rình” nhưng cho thấy được tài năng, sự tài hoa trong nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân.Đó là lý do vì sao người ta gọi Nguyễn Tuân là bậc thầy ngôn ngữ, mọi từ ngữ của ông đều tinh hoa,sâu sắc. Chuyển: Và mặt trời lên với một vẻ đẹp diệu kì lên như đền đáp cho công sức của nhà văn, thoả mãn khát khao tìm kiếm cái đẹp của Nguyễn Tuân. Mặt trời mọc theo trình tự :trước khi mặt trời , trong khi mặt trời mọc sau khi mặt trời mọc. ? Tìm chi tiết nhà văn miêu tả cảnh Cô Tô trước khi mặt trời mọc? em có cảm nhận gì về chi tiết “ chân trời ngấn bế sạch như tấm kính lau hết bụi? Gv bình :Mặt trời bừng lên trong một không gian thật mới lạ : chân trời ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi thật khó thể tin rằng trận bão vừa quét qua trả lời theo ý kiến của mình HS nghe Hs trả lời HS trả lời. (chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi Hs : hình ảnh so sánh Vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi của cảnh Cô Tô sau cơn bão. Hs suy nghĩ trả lời Hs trả lời b.Cảnh mặt trời mọc : -Trước khi mặt trời mọc : Chân trời ngấn bế sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. - Mặt trời mọc : + nhú lên dần dần + tròn trĩnh, phúc hậu như quả trứng thiên nhiên đầy đặn + y như mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh *Nghệ thuật : hình ảnh so sánh, nhân hoá,ẩn dụ, từ ngữ miêu tả, giàu sắc thái biểu cảm. → Bức tranh cảnh mặt trời mọc tráng lệ, rực rỡ, trong trẻo. -Hình ảnh “chiếc nhạn”,”chim hải âu’ → 13 Cô Tô bởi vẻ đẹp của Cô Tô vẫn vẹn nguyên, trong sáng và tinh khôi , trận bão mang theo những giông tố quét sạch hết “mây” hết “bụi” trên bầu trời ,để rồi vầng dương xuất hiện giữa khung cảnh trong trẻo tinh khôi ấy. ?Tìm những chi tiết miêu tả hình ảnh mặt trời mọc?biện pháp nghệ thuật tác giả sử dụng trong đoạn văn này? Tác dụng? Gv nói kết hợp chiếu máy vào các từ ngữ, biện pháp nghệ thuật. Mặt trời “nhú dần lên”, “rồi lên cho kì hết” cho người đọc cảm nhận thấy bước đi chầm chậm của thời gian trong sự nín thở hồi hộp của tác giả. Rồi mặt trời mọc “tròn trĩnh phúc hậu” biện pháp nhân hoá, tính từ được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh dáng vẻ thần thái kì vĩ của mặt trời. Đoạn văn ngắn với dày đặc những từ láy, tính từ gợi hình, gợi cảm : “lòng đỏ” “ hồng hào” “thăm thẳm”,”mâm bạc”” màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Đặc biệt hai hình ảnh so sánh rất đẹp đặc sắc : - Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn→ hình ảnh so sánh chính xác, nó khiến một sự vật kì vĩ to lớn trở nên gần gũi quen thuộc . - Mặt trời như một quả trứng khổng lồ được đặt trên mâm bạc “màu ngọc trai nước biển ửng hồng”, đó là mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minhnhững người chài lưới trên muôn thưở biển đông→hình ảnh so sánh thể hiện sự am hiểu sâu sắc về Hs trả lời Hs thảo luận nhóm: - Nhóm 2 người - Thời gian : 1 phút. Hs suy nghĩ gợi vẻ đẹp thanh bình , yên ả. 14 cuộc sống của con người miền biển của NT.Các em ạ, mỗi người dân miền biển khi ra khơi họ không chỉ ước mong một con thuyền đầy cá, mà còn là cả sự bình an trở về của những người thân yêu.Vì vậy mà họ không chỉ coi biển là một sự vật, mà với họ biển lớn lao hơn, biển trở thành vị thần trong đời sống tâm linh mỗi con người nơi đây.Bởi thế Nguyễn Tuân đã ví cảnh mặt trời mọc mà thiên nhiên ban tặng cho con người như một mâm lễ phẩm ,uy nghiêm, thiêng liêng để dâng lên thần biển , mừng cho sự an lành, “trường thọ” của những người dân chài lười trên “muôn thưở biển Đông”. Em cảm nhận gì về vẻ đẹp bức tranh mặt trời mọc? Chuyển : Nhà văn khép lại cảnh mặt trời mọc bằng một hình ảnh “vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại ,trên cái mâm bể sáng dần lên chất bạc nén”,”một con hải âu là là nhịp cánh” .Tại sao nhà văn lại kết thúc cảnh mặt trời bằng chi tiết “ chiếc nhạn”, “chim hải âu”? Em hiểu điều gì về dụng ý của tác giả? GV : Một “chiếc nhạn”mong manh, “chao đi chao lại”, “một cánh chim hải âu bay là là”trên mặt biển buổi bình minh ,hình ảnh giản dị nhưng nó lại là mong mỏi của những người dân trên biển sau những ngày bão tố.Cánh chim hải âu báo sự yên bình trên biển cả, báo hiệu cuộc sống êm ả trở lại sau những ngày giông tố khắc nghiệt.Nguyễn tuân để hình ảnh “ chiếc nhạn”, “ cánh chim hải âu” để khép lại cảnh mặt trời mọc như muốn khẳng định sự bình yên và trường tồn của đảo Cô Tô, trả lời 15 sự kiên cường vững chãi của thiên nhiên giữa bão tố khốc liệt ngoài biển khơi . Đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc trong bài kí Cô Tô là đoạn văn xuất sắc nhất về tả cảnh của văn học việt nam , sau khi cảm nhận cái hay cái đẹp của đoạn văn em học được điều gì khi miêu tả cảnh? GV chốt phương pháp miêu tả cảnh.( chiếu đoạn văn trên máy) - Chọn đối tượng miêu tả ( số lượng câu văn miêu tả đối tượng trong đoạn văn) - Trình tự miêu tả( trình tự thời gian)
Tài liệu đính kèm: