Sáng kiến kinh nghiệm Kiểm tra bài cũ môn tiếng Anh bậc tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Kiểm tra bài cũ môn tiếng Anh bậc tiểu học

Một học sinh sẽ đóng vai Linda, một học sinh đóng vai Peter đọc lại đoạn hội thoại trên. Sau khi đã nghe các em học sinh đọc bài, tôi đưa ra câu hỏi lien quan để kiểm tra khả năng sử dụng mẫu câu của các em.

Giáo viên hỏi: What time do you go to school?

Học sinh trả lời: I go to school at six thirty a.m.

Áp dụng cách kiểm tra này, tôi có thể kiểm tra được kĩ năng đọc và kĩ năng nói của học sinh.

c.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:

 + Về cơ sở vật chất: trường tôi rất thuận lợi là có phòng tiếng Anh riêng, có bảng tương tác, có các phần mềm hỗ trợ, sách điện tử có sẵn file nghe và tranh ảnh nên việc dạy học và thiết kế trò chơi rất thuận tiện. Tuy nhiên, đối với các trường chưa có điều kiện thì cần phải có sự chuẩn bị tranh ảnh, bảng phụ và một số đồ dùng cần thiết.

 + Về GV: chuẩn bị bài chu đáo, thiết kế bài dạy phát huy được khả năng sáng tạo của HS cũng như tạo hứng thú cho HS trong quá trình học.

 

doc 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1599Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kiểm tra bài cũ môn tiếng Anh bậc tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trọng.
Trước kia, khi học sinh nghe giáo viên nói kiểm tra bài cũ là các em học sinh cảm thấy lo lắng và căng thẳng. Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học, dạy học lấy học sinh làm trung tâm cùng với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã phần nào làm thay đổi cách thức và hình thức kiểm tra bài cũ của giáo viên.
Môn tiếng Anh ở Bậc Tiểu học hiện nay vẫn còn là một môn học mới mẻ đối với các em học sinh. Vì vậy, để tạo hiệu quả cho việc học tiếng Anh cũng như tạo sự yêu thích và hứng thú học tập cho các em, tránh gây áp lực cho học sinh trong quá trình kiểm tra bài cũ đòi hỏi người giáo viên phải có cách thức kiểm tra phù hợp. vì những lí do trên mà tôi đã chọn “ Kinh nghiệm kiểm tra bài cũ môn tiếng Anh Bậc Tiểu học” làm đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
	Mục tiêu của đề tại là kiểm tra đánh giá được mức độ học tập của học sinh nhưng không gây áp lực cho học sinh.
	Phát huy được khả năng sáng tạo và sự năng động trong học tập của học sinh.
	Làm cho học sinh yêu thích môn tiếng Anh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Chia sẻ kinh nghiệm đồng thời ghi nhận những góp ý từ đồng nghiệp nhằm đưa ra những kinh nghiệm tốt nhất để áp dụng trong dạy học tiếng Anh.
Nhiệm vụ của đề tài là đưa ra nhưng hình thức kiểm tra bài cũ phù hợp và hiệu quả đối với học sinh.
Nêu lên được những mặt mạnh, mặt yếu của đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các em học sinh khối 3 học theo chương trình SGK mới 4 tiết/ 1 tuần của trường TH. Đinh Tiên Hoàng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các em học sinh khối 3 của trường TH Đinh Tiên Hoàng.
	5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
	II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
Mục tiêu của nhà nước ta theo Đề án 1400 là “đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp Trung cấp, Cao đẳng, và Đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Để đạt được mục tiêu lớn đó thì ngay từ bậc Tiểu học học sinh phải được học tiếng Anh một cách bài bản và được đi đúng hướng.
	Học tiếng nói chung và học tiếng Anh nói riêng đòi hỏi một quá trình lâu dài và bền bỉ. Việc tạo cho các em học sinh một nền tảng vững chắc với môn tiếng Anh cho các cấp học cao hơn là một trọng trách của các giáo viên tiếng Anh bậc Tiểu học, đòi hỏi mỗi giáo viên phải học hỏi, tìm tòi và sáng tạo rất nhiều để đáp ứng được mục tiêu đề ra là sau khi hoàn thành chương trình Tiểu học, các em học sinh có thể sử dụng tiếng Anh để giao tiếp một cách đơn giản.
	Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa , đổi mới phương pháp giảng dạy thì vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá là hai hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau . Đổi mới kiểm tra đánh giá là động lực đổi mới phương pháp dạy học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo.
2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
+ Thuận lợi
Cùng với việc thực hiện Đề án dạy học 1400 của Bộ giáo dục và đào tạo, trường TH Đinh Tiên Hoàng được trang bị các trang thiết bị dạy học hiện đại như bảng thông minh. Đây là điều kiện tốt giúp giáo tôi thực hiện các thủ thuật kiểm tra bài cũ đối với học sinh khi có các trang thiết bị hỗ trợ.
Phòng GD&ĐT Krông Ana rất quan tâm tới việc dạy và học bộ môn tiếng Anh. Phòng GD luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên phát huy được khả năng của mình.
Trong những năm gần đây, Sở GD&ĐT cũng như Phòng GD&ĐT rất quan tâm tới việc dạy và học tiếng Anh, đặc biệt là ở bậc Tiểu học. Giáo viên tiếng Anh được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cũng như phương pháp giảng dạy từng bước tiếp cận với những phương pháp dạy học tiên tiến đáp ứng nhu cầu của thời đại. Nhờ việc được tham gia các lớp tập huấn về đó mà tôi học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.
Ban lãnh đạo nhà trường cũng luôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học tiếng Anh. Nhà trường đã bố trí phòng học tiếng Anh riêng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên tiếng Anh dạy học. 
Đội ngũ giáo viên tiếng Anh trẻ, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh thân yêu.
Càng ngày càng có nhiều chương trình học bổ trợ cho môn tiếng Anh, các em học tập cả trên lớp và ở phòng máy, học qua mạng Internet. Ngoài ra các em còn tham gia vào các cuộc thi giải tiếng Anh qua mạng và giao lưu Olympic tiếng Anh tiểu học, phần nào đã giúp nâng cao chất lượng học sinh. Học sinh được học môn tiếng Anh 4 tiết/ 1tuần giúp các em có nhiều thời gian thực hành trên lớp.
+ Khó khăn:
Qua thực dạy bộ môn tiếng Anh ở Tiểu học, tôi nhận thấy một thực trạng chung là hầu hết học sinh chưa nhận thấy tầm quan trọng khi học môn tiếng Anh; vẫn còn lơ là xem nhẹ bộ môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học nên trong quá trình học, các em vẫn chưa tập trung cao độ để bài học có kết quả cao.
 	Một trong các thực trạng khó khăn chung nữa đó là mức độ tiếp thu của các em còn hạn chế, đặc biệt là trường tôi hơn 50% các em là học sinh dân tộc thiểu số, gia đình khó khăn nên việc quan tâm tới việc học của con em mình còn rất hạn chế, gây khó khăn cho giáo viên trong việc tạo hứng thú cho các em trong việc học tiếng Anh.
Đặc thù một lớp học ở Việt Nam nói chung còn quá đông học sinh nên việc tập trung chú ý cũng như việc rèn luyện thực hành còn hạn chế.
Mức độ tiếp thu của học sinh trong một lớp có sự khác biệt nên cũng gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt dộng dạy học.
	b. Thành công – hạn chế:
Khi vận dụng những kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh chú ý hơn trong tiết học, các em yêu thích học tiếng Anh, từ đó chất lượng được nâng lên rõ rệt. Trong tiết học, học sinh không còn sợ kiểm tra bài cũ mà hăng hái tham gia các hoạt động.
Tuy nhiên, đây chỉ là những kinh nghiệm của cá nhân nên nó cũng có những hạn chế nhất định, mang tính chủ quan của người viết. Vì vậy, mỗi giáo viên nên chọn lọc và áp dụng phù hợp vời hoàn cảnh và điều kiện của từng trường.
c. Mặt mạnh – mặt yếu:
Đề tài thể hiện rõ nét việc đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy, phát huy có hiệu quả hình thức dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tối đa sự sáng tạo, năng động của học sinh.
Đề tài rất phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh Tiểu học.
Các em ngày càng thích thú học hơn, từ đó nâng cao chất lượng học bộ môn tiếng Anh.
Học sinh lớp 3 và lớp được học tiếng Anh 4 tiết/ 1 tuần, đây cũng là một mặt mạnh cho việc áp dụng đề tài vì học sinh có nhiều thời gian để tham gia các hoạt động học tập, được thực hành nhiều hơn.
Bên cạnh những mặt mạnh, còn có những hạn chế sau:
Một số học sinh gia đình khó khăn, cha mẹ không nhắc nhở các em học tập ở nhà,đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số.
Môi trường sử dụng tiếng Anh của các em còn hạn chế.
Số học sinh ở một lớp học khá đông nên cũng phần nào gây khó khăn cho việc dạy và học.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
Có được thành công trong việc áp dụng đề tài là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố:
Sự quan tâm, chỉ đạo của Sở GD&ĐT cũng như của Phòng GD&ĐT về CSVC và trong thiết bị dạy học cũng như việc bồi dưỡng thường xuyên cho GV tiếng Anh.
Trường luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của địa phương và sự đồng tình của phụ huynh học sinh trong công việc.
Sự nhiệt tình của giáo viên và sự chăm chỉ, nỗ lực của học sinh.
Bên cạnh những mặt mạnh còn có những mặt yếu bởi những nguyên nhân sau:
Nhiều học sinh chưa có điều kiện tìm hiểu, học tập các kiến thức trên một số phương tiện truyền thông như mạng internet.
Đa số HS trong trường là dân tộc thiểu số nên các em chưa thật tập trung trong học tập.
Mức độ tiếp thu bài của học sinh khác nhau về trình độ nên khó khăn cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động dạy học.
 Điều kiện, đời sống kinh tế của nhân dân còn khó khăn nên một số phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của con em mình.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
+ Phân tích về các yếu tố thuận lợi và những mặt mạnh:
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu làm việc và vấn đề quan hệ, giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng cao nên việc dạy và học môn tiếng Anh ngày càng được coi trọng là một vấn đề tất yếu. Môn tiếng Anh được quan tâm ngay từ bậc học Tiểu học và có sự tham gia đồng bộ từ Bộ GD&ĐT cho tới Phòng GD&ĐT và cả trong nhà trường. Chính vì nhu cầu học tiếng Anh mà nhiều cuộc thi đã được tổ chức, giúp các em hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng của việc học tiếng Anh cũng như nâng cao chất lượng học bộ môn này một cách đáng kể.
Môn tiếng Anh được đầu tư trước hết là nguồn giáo viên( tất cả các giáo viên tiếng Anh đều được cử đi học nâng cao kiến thức cũng như phương pháp dạy học). Đây là bước đầu tiên cho việc thực hiện Đề án của Bộ GD&ĐT.
Bên cạnh việc đầu tư về con người, việc giảng dạy môn tiếng Anh còn được đầu tư lớn về cơ sở vật chất và trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên tiếng Anh trong công tác giảng dạy. Đơn cử như đầu năm học 2013- 2014, Phòng GD&ĐT Krông Ana đã cấp cho các trường Tiểu học tranh ảnh tự làm để phục vụ cho việc dạy sách tiếng Anh lớp 3 và lớp 4. Đây là một việc chứng tỏ sự quan tâm sâu sắc của Phòng GD đối với chất lượng dạy và học bộ môn tiếng Anh.
+ Phân tích về những khó khăn, hạn chế:
Tỉ lệ hơn 50% là dân tộc thiểu số tại trường TH Đinh Tiên Hoàng là một vấn đề khó khăn lớn cho việc dạy ngôn ngữ, đặc biệt là môn tiếng Anh. Các em đa số sinh ra trong gia đình khó khăn nên việc học không được quan tâm đúng mức. Các em ngồi học không tập trung chú ý nên mức độ tiếp thu bài hạn chế.
Vì mức độ tiếp thu của học sinh trong một lớp có sự khác biệt rõ rệt nên khi tổ chức một số các hoạt động dạy học phù hợp với học sinh giỏi nhưng tôi lại có rất ít thời gian để kèm học sinh yếu.
	3. Giải pháp, biện pháp
	a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Những giải pháp và biện pháp được đưa ra trong đề tài nhằm mục đích trước hết là tạo cho các em học sinh càng ngày càng yêu thích học môn tiếng Anh, các em thấy được tầm quan trọng của việc học tiếng Anh từ đó có một cách học tiếng Anh một cách khoa học và hiệu quả.
Xóa dần khoảng cách giữa giáo viên và học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện, vui vẻ.
Phát huy được tính sáng tạo của học sinh, tạo sự tự tin trong giao tiếp và sử dụng tiếng Anh cho học sinh.
Sau khi học xong chương trình tiểu học, các em học sinh có thể tự tin giao tiếp bằng tiếng Anh với những câu, những cấu trúc đơn giản, biết cách giao tiếp và thái độ giao tiếp đúng đắn, hiểu phần nào về văn hóa một số nước trên thế giới.
Bên cạnh mục tiêu đối với học trò, đề tài cũng nhằm mục tiêu chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, những người có chuyên môn đóng góp ý kiến, vì mục tiêu chung là đưa chất lượng dạy và học tiếng Anh của huyện Krông Ana ngày một đi lên.
b.Nội dung, cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b1. Sử dụng trò chơi trong việc kiểm tra bài cũ
Khi chọn trò chơi thì giáo viên cần xem xét kĩ trò chơi nào phù hợp với nội dung bài học, phải đảm bảo thông qua trò chơi này giúp cho học sinh củng cố được kiến thức đã học là gì? Giáo viên có thể áp dụng các trò chơi này để kiểm tra nhanh mức độ hiểu từ ngay sau dạy từ hoặc có thể đưa vào đầu hoặc sau mỗi bài học tùy thuộc vào nội dung của mỗi bài. Vì vậy giáo viên sử dụng đúng lúc sẽ mang lại hiệu quả cao. Sau đây là một số trò chơi mà tôi thường áp dụng trong các tiết học.
a. Word - practising 
b. Network
c. Jumbled words
d. Matching
e. Guessing words:
f. Rub out and remember
g. Chain game
a. Word – practicing (Rèn từ) 
Với trò chơi này, học sinh có dịp “lục tung” tất cả các từ trong đầu mình, tránh quên từ lại có thể học thêm từ mới trong số các từ mà người bạn chơi tạo ra.
- Giáo viên chuẩn bị: Giáo viên có thể suy nghĩ và tìm những từ có các chữ cái có thể thành lập được các từ khác mà nằm trong nội dung học sinh đã học hoặc để kiểm tra vốn từ của học sinh.
- Tiến hành trò chơi: ít nhất có hai người chơi, có thể chia lớp thành hai nhóm, ai tạo được nhiều từ hơn từ những chữ cái đó sẽ thắng cuộc
Ví dụ: yesterday. 
Dùng các con chữ tạo lên từ đó, cụ thể ở đây là: y, e, s, t, e, r, d, a, y để tạo ra những từ khác. Trong ví dụ trên ta có thể tạo được các từ như: yes, trader, start, year, steady – state,..Khuyến khích khả năng tổ hợp.
b. Network: Nhằm kiểm tra và ôn lại từ vựng theo từng chủ đề đã học.
- Giáo viên chuẩn bị: Viết mạng từ lên bảng.
- Tiến hành trò chơi: Giáo viên lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm chọn 1 đại diện cho mỗi lượt ghi yêu cầu các em ghi lên bảng, mỗi em chỉ được ghi 2 từ, em này về thì mới đến lượt em khác, qui định về thời gian, nhóm nào hoàn thành nhanh, đúng được nhiều từ thì nhóm đó sẽ thắng cuộc.
Ví dụ 1: Unit 11. My family
	Mother
family
Grandfather
	father
sister
 brother
c. Jumbled words: Mục đích giúp học sinh viết lại từ đã học.
- Giáo viên chuẩn bị: Viết bảng phụ ở nhà, trên bảng phụ ghi 5 hoặc nhiều từ mà giáo viên cho là thích hợp.
- Tiến hành trò chơi: Giáo viên lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm 5 em, lần lượt gọi từng cặp thành viên của 2 nhóm lên sắp xếp lại trật tự đúng, nhóm nào hoàn thành nhanh, đúng sẽ thắng cuộc.
Ví dụ: Unit 7. Places in my school
pcmtoeru moor -> computer room
rcalssoom -> classroom
oomumscir -> musicroom
d. Matching: 
Mục đích giúp học sinh ghép các từ tiếng Anh với tiếng Việt, câu hỏi với câu trả lời, nối 2 nửa câu với nhau hoặc tranh ảnh với cụm từ tương ứng,
- Tiến hành trò chơi: Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm 5 em, lần lượt gọi từng thành viên của 2 nhóm lên sắp xếp, nhóm nào hoàn thành nhanh, đúng sẽ thắng cuộc (khi thành viên đầu tiên hoàn thành xong chạy về đập tay vào người tiếp theo mới lên thực hiện). Nhóm nào kết thúc trước và chính xác thì nhóm đó sẽ thắng cuộc.
Ví dụ 1: Học sinh lên bảng nối tranh với từ thích hợp. Sau đó, dựa vào tranh tôi sẽ hỏi học sinh về cấu trúc lien quan.
Ví dụ 2: Tôi yêu cầu học sinh lên bảng nối từ với câu thích hợp.
Match the names of people in column A with relevant information in column B.
A
B
1. musicroom
2.Artroom
3. computerroom
a. where we learn to sing songs.
b. we learn to use computers in this room.
c. we learn to draw pictures in this room.
e. Slap the board
Tôi gọi hai học sinh lên chơi trò chơi để kiểm tra từ mới hai học sinh đó. Tôi chiếu từ lên bảng, đọc tên từng từ có trên bảng. Nhiệm vụ của học sinh là phải đập trúng từ đó nhanh và chính xác nhất.
B2. Chatting(nói chuyện)
Thay vì gọi học sinh lên bảng, đứng trả lời các câu hỏi của giáo viên, tôi đưa ra câu hỏi dạng đối thoại hỏi học sinh. Học sinh không lên bảng mà ở dưới lớp trả lời giống như đang trong tiết học.
Sử dụng cách này, học sinh sẽ không có cảm giác mình đang bị kiểm tra bài cũ, từ đó sẽ không gây áp lực cho học sinh.
Ví dụ:
Giáo viên: What are you doing, Nam?
Học sinh: I’m reading a book.
Bằng cách này tôi kiểm tra được khả năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp của học sinh.
Bên cạnh việc đối thoại giữa giáo viên và học sinh, tôi còn có thể cho học sinh nói chuyện với nhau.
Ví dụ:
S1: What’s your name?
S2: My name’s Oanh.
Bằng cách này tôi có thể kiểm tra được cả hai học sinh mà không gây áp lực cho học sinh nào.
Ngoài ra tôi có thể chiếu tranh lên bảng, yêu cầu học sinh nhìn tranh và trả lời câu hỏi.
Ví dụ: để kiểm tra mẫu câu từ vựng về các phòng trong nhà và cách dung mẫu câu This is. 
Giáo viên: What’s this?
Học sinh: This is a bedroom.
B3. Role playing(đóng vai)
Tôi chiếu bài hội thoại lên bảng, gọi hai học sinh lên đóng vai, đọc lại bài hội thoại, sau đó cho học sinh hỏi câu hỏi liên quan đến nội dung bài hội thoại.
Ví dụ:
Một học sinh sẽ đóng vai Linda, một học sinh đóng vai Peter đọc lại đoạn hội thoại trên. Sau khi đã nghe các em học sinh đọc bài, tôi đưa ra câu hỏi lien quan để kiểm tra khả năng sử dụng mẫu câu của các em.
Giáo viên hỏi: What time do you go to school?
Học sinh trả lời: I go to school at six thirty a.m.
Áp dụng cách kiểm tra này, tôi có thể kiểm tra được kĩ năng đọc và kĩ năng nói của học sinh.
c.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
	+ Về cơ sở vật chất: trường tôi rất thuận lợi là có phòng tiếng Anh riêng, có bảng tương tác, có các phần mềm hỗ trợ, sách điện tử có sẵn file nghe và tranh ảnh nên việc dạy học và thiết kế trò chơi rất thuận tiện. Tuy nhiên, đối với các trường chưa có điều kiện thì cần phải có sự chuẩn bị tranh ảnh, bảng phụ và một số đồ dùng cần thiết.
	+ Về GV: chuẩn bị bài chu đáo, thiết kế bài dạy phát huy được khả năng sáng tạo của HS cũng như tạo hứng thú cho HS trong quá trình học.
	d.Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
	Các giải pháp, biện pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các bước thực hiện đều có quan hệ chặt chẽ, nếu GV không làm tốt một bước nào đó sẽ ảnh hưởng tới các bước tiếp theo. Bên cạnh đó các yếu tố về CSVC, HS, GV cũng có mối liên hệ chặt chẽ, giúp GV có thể thiết kế bài dạy cho phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng HS.
e.Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
	Thực hiện có hiệu quả đề tài mang lại một giá trị khoa học to lớn, làm tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo của việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường nói riêng và cũng là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các giáo viên tiếng Anh nói chung.
	HS hứng thú học tiếng Anh hơn góp phần to lớn trong việc khích lệ các em tham gia các cuộc thi giải tiếng Anh trên internet cũng như tự tin hơn trong giao tiếp bằng tiếng Anh với cô giáo cũng như bạn bè.
	Kết quả của HS khi tham gia giải tiếng Anh trên internet cấp huyện năm học 2013- 2014.
Tổng số HS tham gia
Đạt
Giải ba
Giải KK
Công nhận
22
17
2
2
13
Kết quả kiểm tra bài cũ khi đã áp dụng sang kiến
Khối
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
3
69
30
20
15
4
4. Kết quả 
Từ kết quả khảo nghiệm có thể dễ dàng nhận thấy chất lượng học tiếng Anh đại trà của trường tôi được cải thiện rõ rệt, môn tiếng Anh trở thành một môn học yêu thích của rất nhiều HS trong trường khi được hỏi về sở thích về môn học ở trường.
Học sinh không còn lo lắng khi cô giáo kiểm tra bài cũ mà rất hang hái tham gia các hoạt động.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
Kết luận:
Dân gian có câu: “ Một cây làm chẳng nên non
 Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” 
để nói đến sự thành công của một việc nào đó cần có sự đồng sức, đồng lòng của nhiều người, sự ủng hộ, đầu tư, hợp tác của nhiều thành viên. Trong việc dạy và học tiếng Anh cũng vậy, để đạt được thành công cần có sự kết hợp của cấp trên, nhà trường, giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Tôi rất mong sự kết hợp giữa các nhân tố này luôn bền chặt và có hiệu quả nhằm mục tiêu đưa chất lượng HS học tiếng Anh ngày một nâng cao.
Vấn đề cuối cùng mà tôi muốn chia sẻ ở đây là trong công tác giảng dạy cần luôn thực hiện tốt các nguyên tắc:
+ Chuẩn bị bài dạy chu đáo trước giờ lên lớp.
+ Phân bố thời gian của tiết dạy phù hợp.
+ Chủ động trong giờ dạy.
+ Có tầm quan sát học sinh trong lớp tốt.
+ Khuyến khích học sinh trong quá trình học.
+ Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà sau mỗi tiết học.
Trên đây là một số phương pháp cũng như những suy nghĩ của tôi trong quá trình dạy nghe tiếng Anh ở bậc tiểu học. Tôi xin mạnh dạn nêu ra đây để góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Anh trong trường tiểu học. Rất mong quý đồng nghiệp bổ sung thêm để cho đề tài này ngày càng phong phú và hiệu quả hơn.
Về bản thân, tôi xin được chân thành cảm ơn với những sự góp ý nhiệt tình và sẽ không ngừng học hỏi tìm tòi thêm các phương pháp mới để có nhiều kết quả dạy tốt hơn nữa.
2. Ý kiến đề xuất:
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh cho HS tiểu học nói chung và việc góp phần giúp cho các em học sinh nghe tốt tiếng Anh nói riêng như sau:
- Sở GD nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về việc tiếp cận phươ

Tài liệu đính kèm:

  • docĐinh Thị Trung.doc