5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Là một người giáo viên, với suy nghĩ góp phần nhỏ bé của mình đào tạo thế
hệ trẻ, tôi luôn suy nghĩ, trăn trở tìm ra phương án tốt nhất để góp phần mình
giáo dục học sinh có đầy đủ kiến thức cập nhật đảm bảo yêu cầu của xã hội màcòn là những em học sinh trở thành người có ích cho đất nước. Chỉ mong thế hệ
măng non này lớn lên sẽ đủ lông đủ cánh gánh vác vận mệnh giang sơn không
thua kém bạn bè các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với thâm niên là giáo viên chủ nhiệm 22 năm và đặc biệt 7 năm được Ban
giám hiệu phân công giảng dạy lớp 5 – một người thầy tổng thể vừa dạy các em
tri thức và vừa dạy các em cách làm người, hình thành những nhân cách cho trẻ.
Vậy phải làm thế nào để đạt được những yêu cầu này? Đó là một câu hỏi khó
không phải ai cũng tìm được câu trả lời. Thấy rõ vấn đề này, tôi luôn coi trọng
cả hai lĩnh vực dạy chữ và dạy người trong công tác giáo dục. Đặc biệt tôi luôn
chú trọng việc hỗ trợ những học sinh gặp khó khăn trong học tập.
Hỗ trợ, giúp đỡ học sinh gặp khó khăn trong học tập, chưa hoàn thành
môn học hay chưa đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng là một công việc thường
xuyên được gắn bó với người giáo viên và hầu như giáo viên chủ nhiệm nào
cũng từng trải qua công tác này. Đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải luôn tìm tòi,
nghiên cứu tìm ra biện pháp khắc phục để cuối học kì và cuối năm các em hoàn
thành được môn học, đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của lớp học, cấp học
sinh, giáo dục ý thức học tập và kèm cặp những học sinh gặp khó khăn trong học tập. Trên sở sở đó tôi đưa ra các biện pháp cụ thể ở các phân môn Tiếng Việt và Toán, kèm theo các biện pháp khắc phục. Từ những lí do nêu trên nên tôi đã chọn đề tài: “ Hỗ trợ học sinh gặp khó khăn trong học tập ở lớp 5 đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng”. Phương pháp này hoàn toàn mới, không có trong sách vở...Và đây cũng chính là “Tính mới “của sáng kiến. 5.2. Nội dung sáng kiến: a.Thực trạng của vấn đề Năm học 2020-2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 5 . Thực tế, ở lớp tôi chủ nhiệm còn gặp những khó khăn sau: - Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập. - Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. - Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế. - HS đọc viết chậm và khả năng tính toán chậm hoặc làm toán không được. - Khả năng nhận thức của các em cũng khác nhau, cùng một độ tuổi nhưng trình độ chung các em chênh nhau rõ rệt. - Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô. Chính vì những nguyên nhân trên đòi hỏi người giáo viên cần phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để giúp những học sinh gặp khó khăn trong học tập đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng. Muốn học sinh đạt hiệu quả tốt thì giáo viên phải thực hiện tốt những việc sau: b. Các giải pháp thực hiện Thứ nhất: Xây dựng môi trường học tập thân thiện - Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để biện pháp dạy học sinh chưa đạt chuẩn KTKN đạt hiệu quả cao. Thông qua những cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên cần tạo được sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. - Giáo viên cần tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời lẽ thiếu tôn trọng với các em. Đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. - Học sinh tiểu học rất thích khen vì thế giáo viên nên thay thế những lời chê bai bằng khen ngợi. Nên tìm những việc làm mà các em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em để các em vui hơn, tự tin hơn trong học tập. Thứ hai: Phân loại các đối tượng học sinh - Theo tôi, đây là một bước vô cùng quan trọng. Ngay từ đầu năm học, thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ, GVCN mới nắm bắt những thông tin cần thiết (như kết quả hai mặt giáo dục, năng khiếu, hoàn cảnh gia đình, đặc biệt chú trọng các đối tượng học sinh chưa đạt chuẩn KTKN) nhằm phân loại đối tượng học sinh. Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh gặp khó khăn trong học tập, chưa đạt chuẩn KTKN đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Ta thường hay gặp một số trường hợp ở đối tượng học sinh như: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát - Trong thực tế ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy, hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. - Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập sao cho phù hợp. Ví dụ khi học bài: Giải toán về tỉ số phần trăm ( Toán – lớp 5 ), đối với các em học sinh học tiếp thu chậm thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “Biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số” là đạt yêu cầu rồi. - Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. ( Được như vậy theo tôi là đã đạt yêu cầu đối với đối tượng học sinh chưa hoàn thành.) - Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức hỗ trợ cho những học sinh chưa hoàn thành khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Ngoài buổi học chính thức, giáo viên nên lên kế hoạch hỗ trợ cho các em vào buổi còn lại. Cũng nên hỗ trợ riêng biệt vì trình độ của các em rất chênh lệch với các học sinh khác của lớp. Tuyệt đối không nên vừa dạy thêm cho cả lớp vừa hỗ trợ cho học sinh chưa đạt chuẩn vì vậy sẽ không đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, việc tổ chức hỗ trợ học sinh phải kết hợp với hình thức vui chơi, những bài tập hoặc câu hỏi liên hệ với thực tế nhằm giúp các em dễ nhớ, dễ tiếp thu. Có như vậy mới lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh áp lực nặng nề, quá tải. Thứ ba: Giáo dục ý thức học tập cho học sinh Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho các em sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy cần chú ý khả năng nhận thức, tiếp thu bài của từng em để có biện pháp giúp đỡ. Trong quá trình khai thác và tìm hiểu bài luôn tạo cơ hội cho các em học tiếp thu chậm trả lời các câu hỏi dễ nhằm động viên khen ngợi, tạo tính mạnh dạn trước tập thể (Giáo viên không nên hỏi thường xuyên khi chưa biết chắc học sinh có khả năng trả lời vì các em này dễ mặc cảm dẫn đến bỏ học, trốn học) Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Phụ huynh cần quan tâm đến việc học của con em mình nhiều hơn vì ngoài giờ học phần lớn thời gian còn lại là các em ở nhà. Giáo viên trên lớp truyền thụ kiến thức cho các em thì về nhà phụ huynh phải cho các em xem lại bài vở, thực hành làm bài tập hay học bài vì nếu ở lớp giáo viên chủ nhiệm có tậm tâm với các em đi nữa mà ở nhà các em chỉ toàn chơi thì cũng không mang lại kết quả gì. Thứ tư: Kèm cặp học sinh gặp khó khăn trong học tập Ngay từ đầu năm, giáo viên phải khảo sát chất lượng để nắm được số lượng và phân loại đối tượng học sinh. Biết số lượng học sinh gặp khó khăn trong học tập hay chưa đạt chuẩn của lớp là bao nhiêu để có kế hoạch hỗ trợ cụ thể ngay từ đầu năm học. Lớp tôi chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm 2020 - 2021 thì có 5 học sinh gặp khó khăn trong học tập, việc có khó khăn trong học tập của mỗi em cũng không giống nhau. Biết được từng em chưa đạt ở môn học nào để lên kế hoạch hỗ trợ cho các em ngay sau khi họp PHHS đầu năm. Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh để tìm biện pháp khắc phục. Lập danh sách học sinh gặp khó khăn trong học tập ( theo mẫu dưới đây ) và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như: thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng, DANH SÁCH HỌC SINH GẶP KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP LỚP Năm học. * Biện pháp cụ thể ở các phân môn: Những hạn chế của HS trong môn Tiếng Việt và biện pháp khắc phục Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong khối còn một số em đọc rất hạn chế. Như em Lê Cao Trí, Nguyễn Vũ Duy, Phạm Hồng Đào. Nguyên nhân đọc yếu ở các em là đọc không trôi chảy, ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, tùy tiện lược bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế. ♣. Biện pháp khắc phục: Đối với những học sinh đọc chậm hoặc chưa đúng thì giáo viên cần: - Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc lại từ chưa đúng nhiều lần để các em đọc được chính xác. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5 hoặc 10 phút. STT Họ và tên TIẾNGVIỆT TOÁN Tên PHHS Địa chỉ Đọc chưa đúng Viết chưa đúng, chậm Tính chậm, chưa đúng 1 2 .. - Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. - Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. - Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường viết mắc nhiều lỗi chính tả. Nguyên nhân các em viết chưa đúng chính tả là do không hiểu và chưa nắm được nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết chưa đúng chính tả. ♣. Biện pháp khắc phục: Đối với những học sinh viết chưa đúng thì GV cần: - Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. - Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả. - Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. - Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ là được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả. Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. ♣. Biện pháp khắc phục: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể hoặc trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra còn hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu. Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời và diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn. ♣. Biện pháp khắc phục: Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn. - Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. - Học sinh tự viết lại. - Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp. - Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn. Ví dụ: Đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt 5 – tập 1 ) Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức “ Lễ chào cờ đầu tuần”, tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả. Tìm hiểu những hạn chế của HS ở môn Toán và biện pháp khắc phục + Trong lớp chủ nhiệm có em Vă Huỳnh Bảo Trân thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều và đây là một số nguyên nhân tiêu biểu như : Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì thế em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắc). + Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp) Từ chỗ không nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân. + Vậy đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Các ví dụ như cộng trừ từ không nhớ đến có nhớ. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. + Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 835 + 354 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng. Ví dụ: 4635 + 28 + Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo viên cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu phẩy ngăn cách giữa phần nguyên và phần thập phân thì mới tính toán chính xác được. + Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn chậm hoặc chưa đúng. Có khả năng nguyên nhân là do các em tính nhẩm kém các phép tính cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. + Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. * Vậy đối với những học sinh tính toán chậm, chưa đúng thì giáo viên cần: - Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. - Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn năng khiếu Toán phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa chữa kịp thời. - Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. - Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. - Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. - Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn hoặc thầy cô giúp đỡ khi cần. - Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường làm chưa đúng, xem trước bài mới. - Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh chưa đạt chuẩn, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa học sinh Tiểu học là thế hệ măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. 5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: Phương pháp này có thể áp dụng cho toàn thể học sinh khối 5 ở trường Tiểu học An Lộc A và học sinh khối lớp trong toàn địa bàn thị xã Bình Long. 6. Những thông tin cần được bảo mật : không 7.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Sự quan tâm, nhiệt tình của ban giám hiệu nhà trường, giáo viên bộ môn, các bộ phận Đội, thư viện, thiết bị, phụ huynh. Sự nhiệt tình, lòng yêu nghề của giáo viên chủ nhiệm. 8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: a. Kết quả đạt được: Trong học kì I của năm học này, Lớp năm/5 do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy có kết quả như sau: ( kết quả tính đến tháng 2). - Về các môn học và hoạt động giáo dục : Môn HTT HT CHT Tiếng Việt 19 14 Toán 15 16 2 Khoa học 24 9 Lịch sử & Địa lí 15 16 2 Đạo đức 29 4 Âm nhạc 18 15 Mĩ thuật 22 11 Thủ công 29 4 Thể dục 23 10 b. Bài học kinh nghiệm: - Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh gặp khó khăn trong học tập, chưa đạt chuẩn KTKN, giáo viên chủ nhiệm cần: ♠ Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. ♠ Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. ♠ Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hợp tác với các em. Xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. ♠ Học sinh lớp 5 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. - Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa trò với trò. Thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em và nhiệm vụ của chúng ta xem như đã thành công. Trên đây là một số ý giúp hỗ trợ những học sinh gặp khó khăn trong học tập mà tôi đã nghiên cứu. Tuy nhiên đề tài của tôi không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Song qua nghiên cứu và thực nghiệm, tôi rút ra được đây chính là một số biện pháp giúp học sinh hăng say học tập hơn và đạt hiệu qu
Tài liệu đính kèm: