Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Chính tả cho ở Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Chính tả cho ở Lớp 2

7.1.1.1. Yêu cầu của giáo viên trên lớp

- Giáo viên đọc mẫu, nêu câu hỏi để học sinh nhớ lại nội dung của bài viết. Cho học sinh tự nêu từ khó để cả lớp cùng phân tích và so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh ở những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.

- Ví dụ: Từ gay gắt gay = g + ay

gắt = g + ăt + thanh sắc

Không được lẫn lộn với từ gai gắc

Do phương ngữ của từng miền khác nhau nên cách phát âm đôi khi chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm vững nghĩa của từ khó.

Ví dụ: Học sinh đọc “Suy nghĩ” nhưng viết “Suy nghỉ” nên giáo viên giúp học sinh cần hiểu “nghỉ” có nghĩa là hoạt động bị ngừng lại, còn “nghĩ” là tính toán điều gì đó. Vì vậy phải viết là “Suy nghĩ”.

Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết

Chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.

Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là HS đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.

* Về âm chính:

Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau

đây:

+ ao/au/âu: Lao bàn

+ oe/eo: Mạnh khẻo

+ iu/êu/iêu: Chìu chuộng

+ ip/iêp: Liên típ

+ ui/uôi: Đầu đui

+ um/uôm/ươm: Cánh bườm

* Về âm cuối:

Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:

+ at/ac: Đồ đạt

+ an/ang: Cây đàn

+ ăt/ăc: Mặt quần áo

+ ăn/ăng: Khăng quàng

+ ân/âng: Cái câng

+ êt/êch: Chênh lệt

+ ên/ênh: Lên đên

+ iêt/iêc: Thân thiếc

+ ut/uc: Núc áo

+ uôn/uông: Mong muống

+ uôt/uôc: Trắng muốc

+ ươn/ương: Con lương

 

docx 19 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 08/01/2025 Lượt xem 17Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Chính tả cho ở Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải các lỗi cụ thể sau :
Thanh điệu: Học sinh không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã. Ví dụ: Suy nghỉ, nghỉ ngợi, sửa chửa, 
Về âm đầu: Viết lẫn lộn với chữ cái ghi âm đầu Ví dụ :
g/gh: Cái gế
ng/ngh: Con ngé
c/k: Cái céo
ch/tr: Một chăm
s /x: Chim xẻ, chia xẻ
v/d: Dui dẻ, đi dề
r/g: Cá gô
ph: Pía
Bên cạnh đó cho thấy quy ước của chữ quốc ngữ rất phức tạp, một âm có thể ghi bằng hai ba dạng như ngờ ghi bằng ng/nghTừ những lỗi sai đó cộng với sự phức tạp của chữ quốc ngữ nếu chúng ta không có biện pháp uốn nắn kịp thời thì dẫn đến sẽ hình thành thói quen không tốt ở học sinh. Vì vậy để giúp học sinh có kĩ năng viết đúng, đẹp nên tôi đã đi sâu nghiên cứu để tìm ra giải pháp giúp các em học tốt phân môn chính tả.
Nội dung nghiên cứu
Để giúp học sinh học tốt phân môn chính tả chúng ta phải lựa chọn và phối hợp các hình thức tổ chức học tập khác nhau trong lớp học để tạo nên sự mềm dẻo, linh hoạt và sinh động cho quá trình dạy học, đồng thời giáo viên có thể sử dụng nhiều biện pháp và phương pháp dạy khác nhau nhất là phần bài tập. Từ đó tạo cơ hội cho học sinh đều được tham gia vào hoạt động học tập, tạo cho học sinh cách làm việc tập thể theo nhóm, cách chủ động tự tin trình bày ý kiến cá nhân từ đó tạo nên môi trường học tập
thuận lợi cho học sinh. Ngoài việc giáo viên cung cấp từ khó, giải nghĩa từ, phân tích từ, học sinh còn phải tự tìm hiểu từ cùng nghĩa, trái nghĩa để có thể viết đúng. Từ đó phát huy được khả năng hiểu biết của từng học sinh. Sau đó tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để tiết học thêm phong phú và khắc sâu kiến thức.
Dưới đây là những nguyên tắc dạy chính tả:
Nguyên tắc dạy chính tả gắn với việc phát triển tư duy: Phát triển tư duy cho học sinh gắn với sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo kết quả việc tiếp thu và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn. Khi phân tích luyện tập, sửa chữa hoặc cung cấp kiến thức mới cần tiến hành theo một số thao tác tư duy để kích thích hứng thú tìm hiểu, giúp học sinh nắm chắc các hiện tượng và tìm ra cách giải quyết đúng đắn các hiện tượng đó.Tránh áp đặt máy móc những qui tắc mà học sinh chưa được gợi mở suy nghĩ để thực hiện một cách tự giác.Trong quá trình dạy chính tả, giáo viên thường xuyên dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các qui tắc chính tả và ghi nhớ áp dụng vào việc viết văn bản bằng thao tác hệ thống tư duy hợp lí:
Phân chia nhiệm vụ thực hiện quy tắc thành các bước cụ thể.
Lần lượt giải quyết các bước cụ thể đó theo một trình tự logic.
Vận dụng các kinh nghiệm thực tiễn vào việc giải quyết từng bước cụ thể và giải quyết nhiệm vụ chung.
Ví dụ: Dạy cho học sinh phân biệt l/n là nói như viết, nói sao viết vậy. Nói tóm lại, nguyên tắc dạy chính tả gắn liền với phát triển tư duy đòi hỏi học sinh:
Vận dụng các phương pháp thích hợp để rèn luyện các thao tác tư duy giúp học sinh chủ động tích cực lĩnh hội tri thức luyện kĩ năng chính tả tự động hóa.
Hướng dẫn học sinh hoạt động trí tuệ để “Hiểu” tác dụng của chữ viết trong quá trình giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ viết trong quá trình giao tiếp.
Luyện tập, thực hành các hình thức chính tả để củng cố kĩ năng viết và kĩ năng thao tác tư duy khoa học cho học sinh.
Nguyên tắc dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói: Ngôn ngữ được hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp ở dạng thức nói và dạng thức viết. Nói và viết là những hoạt động có hai mặt: Một mặt, là hành động phát ra âm thanh hoặc viết thành chữ; một mặt là hoạt động giao tiếp có nội dung và mục đích cụ thể, biểu hiện bằng chất liệu âm thanh hay kí tự được nói hoặc viết ra thành lời (ngôn ngữ hoặc văn bản ). Chữ viết và chính tả là hệ thống hoạt động chức năng của ngôn ngữ. Chữ viết và chính tả có liên hệ hình thức ngữ âm với nội dung ngữ nghĩa của văn bản. Dạy chính tả hướng về dạng thức viết của hoạt động lời nói yêu cầu sự phát
triển phong phú và đa dạng các kiểu loại bài tập thực hành giao tiếp. Học chữ và học viết chính tả là để viết thạo tiếng nói, để có công cụ học tập và giao tiếp và để phát triển ngôn ngữ. Hướng về dạng thức viết của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ sẽ kích thích hứng thú và hình thành động cơ học tập đúng đắn của học sinh đem lại hiệu quả thiết thực và vững chắc cho phân môn chính tả.
Nguyên tắc chính tả chú ý đến trình độ và phát triển ngôn ngữ của học sinh: Trước tuổi đi học trẻ em mới sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức nói. Hệ thống ngữ âm hệ thống từ vựng và hệ thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ được hình thành ở trẻ một cách tự nhiên, tự phát và vô thức, thông qua dạng thức nói. Bước vào lớp 1(bậc tiểu học) trẻ em mới bắt đầu học chữ tiếp xúc với dạng viết của ngôn ngữ. Để nắm chắc dạng thức viết (biết viết, biết đọc chữ viết) trẻ em phải học chữ, viết chữ và học chính tả. Hệ thống chữ viết và hệ thống qui tắc chính tả được hình thành ở trẻ qua con đường học vấn một cách tự giác và có ý thức. Khi viết chữ trình độ tư duy và ngôn ngữ của trẻ sẽ có một bước phát triển nhảy vọt, từ tư duy cụ thể trực quan và cảm tính, trẻ tiến đến tư duy khái quát trừu tượng và lí tính hoạt động ngôn ngữ của trẻ em phát triển. Khả năng và lĩnh vực giao tiếp mở rộng. Hệ thống chữ viết và hệ thống chính tả đối với học sinh cấp Tiểu học là tri thức mới mẻ. Do đó nội dung hình thức yêu cầu dạy chính tả đề ra phải sát hợp với từng đối tượng.Ví dụ: Khi dạy chính tả ( từ lớp 1) phải coi trọng trước hết là mối liên hệ âm và chữ, phát âm và ghi âm, viết và đọc. Dần dần lên các lớp trên cung cấp những qui tắc biểu hiện mối quan hệ chữ – âm – nghĩa hoặc chữ nghĩa trong dạng thức viết của văn bản.
Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức và chính tả không ý thức: Khi dạy chính tả cần kết hợp cả hai phương pháp dạy chính tả chính tả có ý thức và chính tả không có ý thức. Viết chính tả không có ý thức được áp dụng trong trường hợp võ đoán, loại chính tả không gắn với một quy tắc chính tả nào như chính tả phân biệt phụ âm đầu d/gi, phân biệt phụ âm cuối c/t, n/ng...Trong trường học, cần sử dụng khai thác tối đa phương pháp có ý thức. Muốn vậy, giáo viên cần nắm được các loại lỗi chính tả, nguyên nhân mắc lỗi, các quy tắc chính tả, xây dựng các mẹo chính tả để giúp học sinh ghi nhớ cách viết một cách khái quát, có hệ thống.
Ví dụ: Khi đứng trước nguyên âm i, e, ê, iê Âm cờ viết là k
Âm gờ viết là gh Âm ngờ viết là ngh
Ngoài ra, người ta còn dựa vào kiến thức từ vựng – ngữ nghĩa để tìm ra các mẹo chính tả. Chẳng hạn sẽ viết sữa trong trường hợp sữa chỉ sự vật: Vú sữa, sữa tươi, uống sữa, sữa mẹ,...; sẽ viết sửa trong trường hợp chỉ hoạt động: Sửa soạn, sửa xe, sửa nhà, sửa sang,...Phương pháp dạy chính tả có ý thức vẫn là phương pháp tối ưu nhất. Nó tiết kiệm được thời gian và mang lại kết quả nhanh chóng, chắc chắn. Tuy nhiên, với những trường hợp chính
tả không có quy tắc, cần sử dụng phương pháp dạy chính tả không ý thức. Vì vậy khi dạy chính tả cần sử dụng phối hợp cả hai phương pháp này nhằm đạt hiệu quả cao trong dạy chính tả.
Yêu cầu đối với học sinh
* Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
Bước đầu giáo viên dặn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà bằng cách yêu cầu các em đọc lại bài nhiều lần, viết những từ khó ra bảng con. Hầu như bài chính tả nằm ở bài tập đọc nên tiết tập đọc giáo viên cần chú trọng luyện đọc cách phát âm, mở rộng từ cần hiểu nghĩa, từ đó đến tiết chính tả học sinh sẽ viết đúng hơn.
Truy bài đầu giờ: Những buổi có tiết chính tả nhóm trưởng của các nhóm đọc các từ khó cho các bạn viết bảng con, khi vào tiết học sẽ khắc sâu kiến thức hơn.
Ở phần kiểm tra: Giáo viên đọc lại những từ mà ở bài trước học sinh mắc lỗi nhiều và các từ ở phần bài tập cho học sinh viết bảng con. Sau đó giáo viên kiểm tra xem học sinh đã sửa được những lỗi đã mắc phải chưa.
Yêu cầu của giáo viên trên lớp
Giáo viên đọc mẫu, nêu câu hỏi để học sinh nhớ lại nội dung của bài viết. Cho học sinh tự nêu từ khó để cả lớp cùng phân tích và so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh ở những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Từ gay gắt gay = g + ay
gắt = g + ăt + thanh sắc
Không được lẫn lộn với từ gai gắc
Do phương ngữ của từng miền khác nhau nên cách phát âm đôi khi chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm vững nghĩa của từ khó.
Ví dụ: Học sinh đọc “Suy nghĩ” nhưng viết “Suy nghỉ” nên giáo viên giúp học sinh cần hiểu “nghỉ” có nghĩa là hoạt động bị ngừng lại, còn “nghĩ” là tính toán điều gì đó. Vì vậy phải viết là “Suy nghĩ”.
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm vănnhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết
Chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là HS đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnhvới những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
* Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau
đây:

+ ao/au/âu: Lao bàn
+ oe/eo: Mạnh khẻo
+ iu/êu/iêu: Chìu chuộng
+ ip/iêp: Liên típ
+ ui/uôi: Đầu đui
+ um/uôm/ươm: Cánh bườm
Về âm cuối:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ac: Đồ đạt
+ an/ang: Cây đàn
+ ăt/ăc: Mặt quần áo
+ ăn/ăng: Khăng quàng
+ ân/âng: Cái câng
+ êt/êch: Chênh lệt
+ ên/ênh: Lên đên
+ iêt/iêc: Thân thiếc
+ ut/uc: Núc áo
+ uôn/uông: Mong muống
+ uôt/uôc: Trắng muốc
+ ươn/ương: Con lương
Người miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng/nh; t/c/ch. Mặt khác còn lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr; s/x; d/gi; v/d, phát âm không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã.
Trong khi đó một số người miền Bắc chưa phân biệt l/n; d/gi.
Dạy các quy tắc và giúp học sinh ghi nhớ mẹo, quy tắc chính tả
Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: Các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê. Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như sau:

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_hoc_tot_mon_chinh_ta_cho.docx
  • pdfsang_kien_kn_cua_hoan_244202023.pdf